Hỗ trợ tư vấn
Tư vấn - Giải đáp - Hỗ trợ đặt tài liệu
Mua gói Pro để tải file trên Download.vn và trải nghiệm website không quảng cáo
Tìm hiểu thêm »Download.vn cung cấp tài liệu Bài văn mẫu lớp 7: Tóm tắt văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa.
Tài liệu gồm 6 mẫu tóm tắt lớp 7. Bạn đọc hãy cùng theo dõi để có thể nắm được nội dung của văn bản, cũng như biết cách tóm tắt văn bản theo đội dài khác nhau.
Đề bài: Tóm tắt văn bản “Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa” theo hai yêu cầu 5 - 6 dòng và 10 - 12 dòng.
1. Mở đầu
- Nêu nội dung chính của văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa.
2. Nội dung chính
- Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc
- Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên
3. Kết thúc
Tên tài liệu tham khảo.
1. Mở đầu
- Nêu nội dung chính của văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa.
2. Nội dung chính
- Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc
- Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên
3. Kết thúc
Tên tài liệu tham khảo.
Thế kỉ X - XVIII, dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ. Ngoài ra, một số dân tộc khác như người La Ha, Thái dùng thuyền, bè, mảng; người Sán Dìu dùng xe quệt trâu; Người Mông, Hà Nhì, Dao thương cưỡi ngựa và vận chuyển đồ đạc, hàng hóa hay đi chợ. Ở Tây Nguyên, người dân chủ yếu dùng sức voi, ngựa để vận chuyển.
Trong khoảng thế kỉ X - XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc chủ yếu di chuyển theo cách đi bộ. Một số dân tộc đã xuất hiện các cách vận tải, di chuyển dựa vào các phương tiện khác như: Người La Ha, Thái dùng thuyền, bè, mảng; người Sán Dìu dùng xe quệt trâu; Người Mông, Hà Nhì, Dao thương cưỡi ngựa và vận chuyển đồ đạc, hàng hóa hay đi chợ. Đối với các dân tộc ở Tây Nguyên, họ chủ yếu dùng sức voi, ngựa để vận chuyển. Sống ở khu vực sông suối nhưng họ không giỏi bơi lội, nên thường sử dụng thuyền độc mộc.
Mỗi vùng lại có phương tiện vận chuyển khác nhau. Từ thế kỉ X đến XVIII, dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ. Một số dân tộc di chuyển dựa vào các phương tiện khác như: Người La Ha, Thái dùng thuyền, bè, mảng; người Sán Dìu dùng xe quệt trâu; Người Mông, Hà Nhì, Dao thương cưỡi ngựa và vận chuyển đồ đạc, hàng hóa hay đi chợ. Dân tộc ở Tây Nguyên dùng sức voi, ngựa để vận chuyển.
Vào khoảng thế kỉ X - XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ. Một số tộc người sinh sống ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam đã biết đóng thuyền và sử dụng thuyền để vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Từ xa xưa, người Thái, người Kháng thường chế tạo và sử dụng thuyền đuôi én. Người Kháng thường sinh sống ở các địa phương ven sông Đà, tương đối giỏi trong việc chế tạo thuyền độc mộc, sử dụng thuyền độc mộc để nuôi én. Người Sán Dìu lại dùng xe quệt trâu để vận chuyển. Người Mông, Hà Nhì, Dao thường cưỡi ngựa và vận chuyển đồ đạc, hàng hóa hay đi chợ. Các dân tộc vùng Tây Nguyên thường dùng sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông. Sống ở khu vực sông suối nhưng họ không giỏi bơi lội, nên thường sử dụng thuyền độc mộc. Việc dùng thuyền trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này.
Khoảng thế kỉ X - XVIII, đi bộ là cách di chuyển chủ yếu của các đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc. Một số tộc người sinh sống ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam đã biết đóng thuyền để vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Người Kháng sinh sống chủ yếu ở các địa phương ven sông Đà, chế tạo thuyền độc mộc, sử dụng thuyền độc mộc để nuôi én. Người Sán Dìu lại dùng xe quệt trâu để vận chuyển hàng hóa, đồ dùng. Người Mông, Hà Nhì, Dao thường cưỡi ngựa và vận chuyển đồ đạc, hàng hóa hay đi chợ. Các dân tộc vùng Tây Nguyên hiếm khi dùng trâu như ở phía Bắc mà họ sẽ dùng sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông. Họ không giỏi bơi lội, nên thường sử dụng thuyền độc mộc để vận chuyển, lưu thông trên sông. Thuyền độc mộc của họ không khác nhiều so với thuyền độc mộc của các dân tộc miền núi phía Bắc. Nhưng chủ yếu đàn ông mới dùng thuyền còn phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này.
Trong giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII, đa số dân tộc ở miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ. Bên cạnh đó, một số dân tộc ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam thì đóng thuyền và sử dụng thuyền để vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Người Thái, người Kháng thường chế tạo và sử dụng thuyền đuôi én. Người Kháng thường sinh sống ở các địa phương ven sông Đà, tương đối giỏi trong việc chế tạo thuyền độc mộc, sử dụng thuyền độc mộc để nuôi én. Người Sán Dìu lại dùng xe quệt trâu để vận chuyển. Người Mông, Hà Nhì, Dao thường cưỡi ngựa và vận chuyển đồ đạc, hàng hóa hay đi chợ. Ở Tây Nguyên, người dân sẽ dùng sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông. Họ không giỏi bơi lội, nên thường sử dụng thuyền độc mộc. Đa số người sử dụng là đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này.
Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây: