Bộ đề thi giữa học kì 1 môn Ngữ văn 11 năm 2024 - 2025 sách Cánh diều 4 Đề kiểm tra giữa kì 1 Văn 11 (Có đáp án, ma trận)

Đề thi giữa kì 1 Văn 11 Cánh diều năm 2024 - 2025 tổng hợp 4 đề khác nhau có đáp án giải chi tiết kèm theo. Qua tài liệu này giúp các bạn học sinh ôn luyện củng cố kiến thức để biết cách ôn tập đạt kết quả cao.

TOP 4 Đề thi giữa kì 1 Văn 11 Cánh diều được biên soạn với phần ngữ liệu ngoài chương trình SGK gồm có 1 đề theo cấu trúc đề minh họa từ năm 2025 và 3 đề có cấu trúc trắc nghiệm kết hợp tự luận. Hi vọng qua đề kiểm tra giữa kì 1 Ngữ văn 11 Cánh diều sẽ giúp các em học sinh lớp 11 dễ dàng ôn tập, hệ thống kiến thức, luyện giải đề, rồi so sánh kết quả thuận tiện hơn. Đồng thời đây cũng là tài liệu hữu ích giúp giáo viên ra đề ôn luyện cho các em học sinh của mình. Vậy sau đây là trọn bộ 4 đề thi giữa kì 1 Ngữ văn 11 Cánh diều năm 2024 - 2025 mời các bạn cùng theo dõi. Ngoài ra các bạn xem thêm đề thi giữa học kì 1 Toán 11 Cánh diều.

Đề kiểm tra giữa kì 1 Văn 11 Cánh diều năm 2024 - 2025

Đề thi giữa kì 1 Văn 11

SỞ GD & ĐT …

TRƯỜNG THPT ………

--------------------

ĐỀ CHÍNH THỨC

ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KÌ 1

Năm học: 2024 – 2025

Môn thi: NGỮ VĂN. Khối 11

Thời gian làm bài: 90 phút

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)

Đọc văn bản sau: Chuyện đã xảy ra hơn chục năm, nhưng lão Khổ ngẫm còn đau mãi đến bây giờ.

Vụ lúa chiêm năm ấy, càng về cuối càng thuận. Đúng vào kỳ lúa đỏ đuôi, vòm trời thật nở nang. Nắng đến sướng. Nhờ ông trời cứ kéo cái nắng cho qua kỳ thu hoạch. Chỉ cần lôi được hạt lúa về nhà, còn sau đó, chuyện phơi phóng là chuyện vặt. Từ đồng trên xuống đồng dưới, lúa tràn cả lên bờ. Mỗi lần vác cuốc làm phép đi thăm đồng, lão Khổ lại khấp khởi mừng. Thật là trời giúp lão. Đúng vào năm lão nhiều công nhất thì được mùa.

Mà để có cái ngày sướng con mắt chẳng riêng gì lão, cả gần ngàn dân làng Cổ đã từng héo gan, héo ruột. Những ngày ấy, ruột lão tím bầm. Không biết còn mất mùa đến bao giờ. Nhổ lên cắm xuống có đến vài lượt mà vẫn chỉ thấy đất nổi váng. Mặt ruộng tím tái, se sắt như mặt người sắp chết cóng. Nhiều người khôn ngoan khuyên lão sắm sọt chạy chợ, lão lý lại:

- Hạt thóc chỉ có từ đất. Ai cũng chạy chợ cả thì rồi có lúc đeo vàng mà chết đói.

[…] Bây giờ thì mọi vận hạn đã qua. Lão Khổ đứng giữa đồng lúa, hà hít căng lồng ngực hương thơm ngầy ngậy ngòn ngọt, tâm hồn sảng khoái cực độ. Lão vốn không tin vào trời. Chẳng qua còng lưng ra mà đánh vật với đất, đào xới miếng ăn từ đất chứ cứ ngồi đấy chờ đến số, có mà giã họng!

(Lược một đoạn: Ông Khổ đến nhà Toản – bí thư Đảng ủy, một kẻ tham danh hám vị để bàn chuyện gặt lúa sớm, theo kinh nghiệm các cụ xưa nay đã dạy: “Xanh nhà hơn già đồng”, trời thì nay nắng mai mưa, nên thu hoạch lúa sớm cho đảm bảo. Thế nhưng Toản không đồng ý vì hắn và ủy ban đã có kế hoạch mời cán bộ ở huyện về tham quan xã, để họ thấy xã của ông Khổ làm ăn dưới chỉ đạo của hắn năng suất thế nào, mục đích để khoe khoang).

[…] Tự dưng lão Khổ thấy vô duyên. “Thây kệ chúng mày! Đến lúc dân người ta đào mả chúng mày lên, đừng có trách”.

Nhưng lão cấm chỉ vợ và con cái không được tham gia đón rước gì ráo! Có cái thói đâu chưa làm đã lo không thổi được nhau lên. Ở đâu cũng “tốt đẹp” mà dân cứ đói nhăn ra thì không thấy ai hỏi.

Còn ba ngày nữa đoàn tham quan đến xã. Loa đài gọi ơi ới, ỏm tỏi cả lên. Cửa hàng mua bán mang hàng vào tận làng Cổ, là điều xưa nay chưa từng thấy. Các loại cán bộ tự nhiên đâm ra tận tụy, hết lòng vì dân. Chẳng ai một lần chịu ngước trông trời. Đến khi cơn gió xoáy giật tung mấy băng khẩu hiệu thì chính lão Khổ thất sắc! Đánh nhoàng một cái bầu trời như toàn bằng đá! Mà đá thật. Đá trút xuống ào ào, khua lên mái ngói như sắp đổ sập xuống tất cả. Đá đổ xuống thành lớp, dồn đống lại. Thôi thì đủ thứ kêu gào. Trẻ con nhảy lên vì được ăn đá, dùng đá xát lên mặt rồi xuýt xoa. Người nhiều công điểm như lão Khổ thì ngất đi được. Qua làn đá quất ràn rạt, hàng trăm cặp mắt thất vọng, căm tức hướng về phía những thửa ruộng đầy ắp, đang nát bét dưới tai họa trời giáng!

Chỉ chờ dứt mưa, lão Khổ đâm bổ ra đồng. Hỡi ôi, lão úp tay lên mặt khóc rưng rức. Còn đâu nữa là mùa màng. Thay cho màu vàng óng là màu xám xịt của những cọng rơm ngấm nước, rối vào nhau, đâm chổng lên trời như bị ai vò. Vạch gốc ra, đưa tay sờ thấy một lượt thóc rải xuống bùn, tưởng ruột gan bị đâm bị rạch bằng gai.

Trong làn nước mắt cay đắng, lão Khổ thấy nếp nhà năm gian lão dự định xây bằng thóc thu hoach, vỡ tan như bong bóng.

(Trích: Lũ vịt giời, Tạ Duy Anh, Tuyển tập truyện ngắn 75 gương mặt văn nghệ, tr.561-564)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5

Câu 1. Xác định ngôi kể và điểm nhìn trần thuật của đoạn trích.

Câu 2. Tóm tắt tình huống truyện của đoạn trích.

Câu 3. Em có đồng tình với suy nghĩ của ông Khổ rằng: Hạt thóc chỉ có từ đất. Ai cũng chạy chợ cả thì rồi có lúc đeo vàng mà chết đói? Vì sao?

Câu 4. Nêu cảm nhận của em về chi tiết: Hỡi ôi, lão úp tay lên mặt khóc rưng rức.

Câu 5. Qua đoạn trích, em hiểu như thế nào về cuộc sống người nông dân lúc bấy giờ?

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) nêu cảm nhận của anh/chị về nhân vật ông Khổ trong đoạn văn bản Đọc hiểu.

Câu 2. Hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về hạnh phúc trong cuộc sống.

Đáp án đề thi giữa kì 1 Ngữ văn 11

I. Phần Đọc hiểu

Câu 1.- Ngôi kể: ngôi thứ ba

- Điểm nhìn trần thuật: chủ yếu của người kể chuyện và đan xen điểm nhìn của ông Khổ.

Câu 2. Tình huống truyện: Ông Khổ có vụ mùa bội thu, lúa đạt năng suất cao nhưng do xã không cho gặt sớm, trúng một cơn giông, lúa rụng lẫn bùn khiến ông rất đau khổ.

Câu 3. - HS có thể đồng tình hoặc không đồng tình. Lí giải hợp lí.

- Đồng tình: vì hạt lúa trồng từ đất, là lương thực chính của người nông dân, họ sống với cây lúa, gắn bó nhiều thế hệ, cây lúa nuôi sống họ. Nếu chạy chợ, bỏ trồng lúa thì mất đi gốc rễ của người nông.

- Không đồng tình: nếu trồng lúa mà không đem lại năng suất cao, không có kinh tế thì có thể chạy chợ để kiếm tiền, dùng tiền đó mua lúa gạo.

Câu 4. Chi tiết ông Khổ úp tay lên mặt khóc rung rức:

+ Đó là giọt nước mắt đau khổ, tiếc nuối khi phải chứng kiến thành quả lao động của mình mất đi.

+ Tức giận vì không thể “làm chủ” được tài sản của chính mình.

+ Bất lực trước thực tại nghiệt ngã.

Câu 5. Cuộc sống của người nông dân khó khăn, cơ cực, thiếu thốn đủ bề, chỉ trông mong vào mấy công ruộng lúa nhưng lại chịu sự áp bức, thống trị của chính quyền, của những kẻ hám danh chuộc lợi. Đời sống túng quẫn, luẩn quẩn không thoát khỏi đói nghèo.

II. Phần Viết

Câu 1

.- Hoàn cảnh của ông Khổ: là người nông dân chất phác.

- Tính cách: thật thà, chăm chỉ lao động, có trách nhiệm cao trong công việc…

- Sự việc diễn ra: Được mùa lúa, ông Khổ rất hứng khởi, vui mừng. Ông lo lắng trời nay nắng mai mưa thất thường, lúa cũng đến thì chín vàng gốc rạ, mong muốn thu hoạch sớm. Nhưng vì xã không duyệt mà gặp trận giông, lúa rụng lẫn vào bùn khiến ông mất mát, đau khổ vô cùng.

- Cuộc đời và số phận của ông như chính cái tên của ông vậy: Khổ.

- Nêu tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm qua hình tượng nhân vật: sự đồng cảm, thấu hiểu…

- Nêu cảm xúc của em về nhân vật:…

Câu 2* Giới thiệu được vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm cá nhân về vấn đề nghị luận.

* Triển khai vấn đề cần nghị luận:

- Giải thích:

+ Hạnh phúc là trạng thái vui vẻ, sung sướng khi đạt được những điều mà mình mong muốn. Hạnh phúc là điều ai cũng mong muốn và tìm kiếm suốt cuộc đời.

+ Hạnh phúc có thể bắt nguồn từ những điều lớn lao, có thể là những điều bình dị. Hạnh phúc nào cũng đáng trân trọng, nâng niu.

- Bày tỏ quan điểm của người viết:

+ Nhận thức được hạnh phúc không phải lúc nào cũng là điều lớn lao, hạnh phúc là những gì gần gũi, bình dị quanh ta, hạnh phúc là khi “có một công việc để làm, có một người để yêu thương, có một nơi để trở về”. Vì vậy, cách đơn giản nhất để có được hạnh phúc là trân trọng, hài lòng với những gì mình đang có.

+ Nhìn cuộc sống bằng cái nhìn lạc quan, tích cực.

+ Can đảm sống và làm những gì mình yêu thích

+ Tìm ra mục tiêu của cuộc đời, nỗ lực, cố gắng để đạt được mục tiêu dù nhỏ bé hay lớn lao, ta sẽ tìm thấy hạnh phúc trong cuộc đời.

+ Tự tạo cho mình những niềm vui, những hạnh phúc giản dị trong cuộc đời

+ Hạnh phúc là cống hiến, là trao đi yêu thương, là mang lại hạnh phúc cho người khác….

- Lấy được dẫn chứng và phân tích dẫn chứng.

- Mở rộng, bày tỏ quan điểm trái chiều, hoặc ý kiến khác để có cái nhìn toàn diện hơn.

+ Mọi hạnh phúc trong đời đều đáng trân trọng nâng niu, đừng theo đuổi những hạnh phúc xa vời mà quên đi những điều giản dị hiện hữu xung quanh

+ Không nên tìm mọi cách để đạt được hạnh phúc, có những hạnh phúc dù nỗ lực thế nào cũng không thuộc về mình, khi ấy hãy biết buông bỏ để tâm hồn được bình yên

+ Phê phán những người không biết trân trọng hạnh phúc, suy nghĩ tiêu cực….

* Khẳng định lại quan điểm cá nhân và rút ra bài học cho bản thân.

.............

Tải file tài liệu để xem thêm Đề kiểm tra giữa kì 1 Văn 11 Cánh diều

Chia sẻ bởi: 👨 Trịnh Thị Thanh
Liên kết tải về

Link Download chính thức:

Sắp xếp theo
👨
    Chỉ thành viên Download Pro tải được nội dung này! Download Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm