Hỗ trợ tư vấn
Tư vấn - Giải đáp - Hỗ trợ đặt tài liệu
Mua gói Pro để tải file trên Download.vn và trải nghiệm website không quảng cáo
Tìm hiểu thêm »Đoạn văn chia sẻ cảm nhận về nét độc đáo của một bài thơ được viết theo phong cách cổ điển hoặc lãng mạn là tài liệu tham khảo hữu ích.
Nội dung của tài liệu sẽ bao gồm 4 đoạn văn mẫu lớp 12. Bạn đọc có thể theo dõi chi tiết ngay sau đây.
Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ, sử dụng ngôn ngữ trang trọng) để chia sẻ cảm nhận của bạn về nét độc đáo của một bài thơ được viết theo phong cách cổ điển hoặc lãng mạn và bạn yêu thích.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng của tác giả Hồ Chí Minh đã để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc là bài thơ Rằm tháng giêng. Trăng vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ Bác. Nhưng ánh trăng trong “Rằm tháng giêng” lại mang một nét độc đáo riêng. Bởi đó là ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng - trăng đang ở độ tròn đầy, sáng rõ nhất. Không gian núi rừng rộng lớn ngập tràn ánh trăng. Và “sông xuân”, “nước xuân”, “trời xuân” cũng lẫn màu ánh trăng. “Xuân” được điệp lại đến ba lần gợi ra sắc xuân rực rỡ khắp cả đất trời. Cùng với từ “tiếp” khiến cho người đọc hình dung ra bầu trời và mặt đất đang giao hòa. Trong bức tranh thiên nhiên đó, con người cũng xuất hiện với một công việc quan trọng. Giữa màn sương khói mờ ảo, Bác và các chiến sĩ cách mạng đang bàn bạc việc quân, việc nước. Đây là một việc đòi hỏi sự kín đáo, bí mật nên chỉ có thể diễn ra vào ban đêm, tại nơi vắng vẻ. Thế mới thấy được rằng công việc cách mạng khó khăn, vất vả đến nhường nào. Dù vậy thì tâm hồn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đầy lạc quan. Hình ảnh ở cuối bài thơ thật đặc sắc: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Hình ảnh gợi cho người đọc tưởng tượng về khung cảnh ánh trăng tròn đây đến độ lai láng trên con thuyền của người chiến sĩ cách mạng khiến con thuyền để “bàn quân sự” giờ đây vụt biến thành con thuyền thơ đầy ảo mộng. Chỉ sau khi bàn bạc việc nước xong xuôi, Người mới có thời gian ngắm nhìn thiên nhiên bằng một trái tim say mê nhất. Bài thơ Rằm tháng giêng có sự kết hợp giữa phong cách cổ điển và hiện đại, giúp người đọc hiểu hơn về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam.
Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh là một trong những bài thơ hay của Lí Bạch, mang đậm phong cách cổ điển. Bài thơ có thể được chia làm hai phần. Phần đầu khắc họa vẻ đẹp của ánh trăng. Nhà thơ đã sử dụng khéo léo các từ “minh”, “quang”, “sương” nhằm gợi tả ánh trăng trong đêm rất sáng và mở ảo, chiếu xuống mà nhìn là dưới mặt đất đất đang phủ một làn sương mờ ảo. Kết hợp với đó là từ chỉ vị trí - “sàng” (giường) để nói rõ vị trí ngắm trăng của nhà thơ. Ánh trăng sáng chiếu rọi xuống đầu giường, đêm đã về khuya nhưng Lý Bạch vẫn còn thức. Tâm trạng được bộc lộ đó là nỗi thao thức khiến nhà thơ không ngủ được. Ánh trăng chiếu xuống vạn vật trong đêm tối mờ ảo khiến cho nhà thơ không phân biệt được đâu là trăng đâu là màn sương đêm. Ta thấy rằng dưới con mắt của nhà thơ, ánh trăng lúc này hiện lên với vẻ mờ ảo. Điều đó khiến chúng ta hình dung ra hình ảnh Lý Bạch vừa uống rượu vừa ngắm trăng. Phần thứ hai đã diễn tả tâm trạng của nhà thơ. Việc sử dụng từ “vọng” có thể được hiểu là nhìn ra xa để ngắm trăng hoặc ngóng trông, nhìn về quê hương ở phía xa. Câu thơ tiếp theo Lý Bạch đã xây dựng hai hình ảnh đối lập: “cử đầu” - “đê đầu” (ngẩng đầu - cúi đầu) giúp cho câu thơ trở nên đăng đối nhịp nhàng. Với hành động “ngẩng đầu”, ta thấy được hướng nhìn về phía ánh trăng đang chiếu sáng khắp mặt đất, cả quê hương của nhà thơ. Với hành động “cúi đầu”, ta lại thấy được nhà thơ đang tự nhìn vào nội tâm mình - tự đối mặt với nỗi nhớ quê hương da diết. Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh đã cho người đọc thấy được tình yêu quê hương cùng nỗi nhớ da diết của một người sống xa quê trong đêm trăng thanh tĩnh.
Sóng của Xuân Quỳnh đã thể hiện được vẻ đẹp của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Nhà thơ xây dựng hình tượng “sóng” là hóa thân cho nhân vật trữ tình “em”. Từ đó, những nét tính cách, trạng thái và cung bậc cảm xúc của người phụ nữ trong tình yêu được thể hiện, bộc lộ. Đọc bài thơ, tôi thấy được tính cách và tâm hồn của người phụ nữ đang yêu, có khi đầy dữ dội ồn ào, cũng có khi đầy yên bình, lặng lẽ. Và nếu sóng tồn tại bất diệt với đại dương thì tình yêu tồn tại bất diệt với con người. Dù là “ngày xưa” hay “ngày sau” thì “vẫn thế” thì tình yêu vẫn không thay đổi. Có thể thấy rằng, tình yêu thật đẹp đẽ, nhưng đẹp nhất là khi ở “ngực trẻ” - lứa tuổi đầy những say mê, rạo rực của tình yêu. Tiếp đó, nhà thơ say sưa đi tìm câu trả lời về nguồn gốc của tình yêu. Cũng giống giống như thật khó để biết được từ khi nào tình yêu bắt đầu. Có tình yêu nào mà không phải trải qua nỗi nhớ, và người con gái trong bài thơ cũng như vậy. Đặc biệt nhất, dù ở thời đại nào, người con gái khi yêu vẫn giữ được tấm lòng thủy chung, son sắc. Hình ảnh “xuôi” - “ngược”, “phương Bắc”’ và “phương Nam” được nhà thơ sử dụng trái với quy luật thông thường (ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam). Dù cuộc đời có luôn biến chuyển không ngừng, đôi ta phải trả qua nhiều sóng gió, vạn vật có luôn đổi thay. Thì em vẫn luôn hướng về “phương anh”. Trái tim của “em” vẫn giữ được tình yêu nguyên vẹn dành cho anh dù có trải qua biết bao nhiêu khó khăn, sóng gió trong cuộc đời. Trong tình yêu, người con gái có nhiều dự cảm, lo âu về tương lai phía trước. Nhà thơ đã ý thức được thời gian thì vĩnh cửu nhưng cuộc đời lại hữu hạn. Chính vì vậy mà “em” khao khát được dâng hiến, hy sinh cho tình yêu. Khao khát dâng hiến cho tình yêu thể hiện được một trái tinh mãnh liệt, cháy bỏng của người con gái trong tình yêu. Có thể khẳng định rằng, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam được khắc họa chân thực, sinh động qua bài thơ “Sóng” với những nét đẹp vừa hiện đại vừa truyền thống.
B à Huyện Thanh Quan là một trong những nữ thi sĩ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam, với bài thơ mà tôi cảm thấy yêu thích nhất là “Qua đèo Ngang”. Tác phẩm đã gợi cho tôi nhiều cảm xúc, ấn tượng sâu sắc. Khi tác giả bước tới đèo Ngang cũng là lúc “bóng xế tà” - gợi ra thời điểm kết thúc của một ngày. Thiên nhiên nơi đèo Ngang trần đầy sức sống: “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” thật tinh tế. Có thể thấy khung cảnh đèo Ngang được khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động. Trong nền bức tranh thiên nhiên đó, con người lại xuất hiện. Nghệ thuật đảo ngữ “lom khom - tiều vài chú” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi; cong “lác đác - chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Ở đây, nhà thơ muốn nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Sau đó, nhà thơ đã gửi gắm tâm trạng của mình khi đứng trước khung cảnh đèo Ngang . Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” phải chăng còn bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương? Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ. Cụm từ “ta với ta” ở đây đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Bài thơ Qua Đèo Ngang sử dụng bút pháp cổ điển, giúp người đọc cảm nhận rõ hơn về tình yêu quê hương, đất nước của Bà Huyện Thanh Quan.
Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây: