Phân tích bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh Những bài văn hay lớp 12
Phân tích bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh mang đến bài văn mẫu cực hay, ấn tượng nhất kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao kỹ năng viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ hay.
Cảnh rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh được sáng tác vào những năm 1947, giai đoạn kháng chiến chống Pháp đang trở nên căng thẳng. Để hiểu rõ hơn về bài thơ mời các bạn cùng theo dõi bài văn mẫu phân tích Cảnh rừng Việt Bắc trong bài viết dưới đây. Ngoài ra các bạn xem thêm bài văn mẫu phân tích bài thơ Áo trắng, phân tích bài thơ Hoa cau.
Phân tích Cảnh rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh
Dàn ý phân tích bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm (xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác).
II. Thân bài
* Luận điểm 1: Nội dung
- Hai câu đề: Thể hiện cảm xúc trước cảnh rừng Việt Bắc.
- Từ ngữ “thật là hay” bày tỏ sự yêu mến, ngợi ca thiên nhiên.
- Hình ảnh thiên nhiên sống động qua tiếng vượn, chim kêu gợi cảnh gần gũi, bình dị.
- Hai câu thực: Cuộc sống giản dị, thú vị nơi núi rừng.
- Hình ảnh “ngô nếp nướng”, “thịt rừng quay” thể hiện sự hoà hợp với thiên nhiên, cuộc sống mộc mạc nhưng đầy tình người.
- Sự thân mật trong cách diễn đạt “chén” thay cho “ăn” gợi nét hài hước, gần gũi.
- Hai câu luận: Tận hưởng thiên nhiên và cuộc sống lạc quan.
- “Non xanh, nước biếc; Rượu ngọt, chè xanh” thể hiện sự phong phú của đời sống vật chất lẫn tinh thần.
- Tâm trạng lạc quan, vui say trước vẻ đẹp thiên nhiên của Bác qua cách diễn đạt “tha hồ dạo, mặc sức say”.
- Hai câu kết: Niềm tin và tinh thần lạc quan về tương lai cách mạng.
Câu thơ “Kháng chiến thành công ta trở lại” thể hiện niềm tin tưởng vào thắng lợi của dân tộc, kết hợp với hình ảnh “trăng xưa”, “hạc cũ” tạo nên bức tranh vừa hiện thực, vừa thơ mộng.
* Luận điểm 2: nghệ thuật
- Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục chặt chẽ, hài hòa.
- Cách gieo vần, đối câu và sử dụng nhịp điệu tạo cảm giác mượt mà, uyển chuyển.
- Sử dụng ngôn ngữ gần gũi, tươi sáng, hình ảnh ước lệ kết hợp với tả thực.
III. Kết bài
Khẳng định giá trị của bài thơ và cảm nhận về tinh thần lạc quan, yêu thiên nhiên của Bác Hồ.
Phân tích bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc
Bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc được Bác Hồ viết vào mùa xuân năm 1947, sau một năm quân ta tạm rút khỏi thủ đô Hà Nội để lên núi rừng bạt ngàn Việt Bắc, lập căn cứ làm cuộc trường kỳ kháng chiến thần thánh chín năm chống thực dân Pháp. Đây là lần thứ hai, Bác Hồ và Trung ương Đảng sống, làm việc tại căn cứ địa Việt Bắc để lãnh đạo cách mạng.
Lần thứ nhất là trước Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945. Nói vắn tắt đôi lời để thấy trong bối cảnh như vậy mà vị lãnh tụ vĩ đại, nhà thơ lớn Hồ Chí Minh vẫn luôn dạt dào niềm xúc động trước cảnh sắc thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, với một tứ thơ tức cảnh hàm xúc và tràn đầy lạc quan, mà có lẽ chỉ những người cách mạng mẫu mực như Bác Hồ mới có trong một hoàn cảnh khó khăn như vậy.
Mở đầu bài thơ, Bác đã như reo lên trước cảnh đẹp thiên nhiên kỳ vĩ: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay”. Nhưng lạ là ở chỗ, cái hay ấy không phải là cái gì xa vời, lại càng không phải những cái gì gợi sự tò mò, kiểu như võ sĩ vào rừng săn tìm sự lạ lùng và khơi gợi trí tò mò. Ở đây, cái hay chính là thiên nhiên, nói cách khác, là sự gắn kết thiên nhiên với con người, con người với thiên nhiên ở một nơi thiên nhiên vẫn như còn nguyên sơ và con người vẫn nguyên vẹn tình yêu tha thiết với thiên nhiên.
Thế nên, dẫu có suốt ngày vượn hót, chim kêu mà có ai đó khó tính cảm thấy đinh tai, nhức óc, thì với Bác Hồ, đến cỏ cây hoa lá đất trời xanh cũng làm cho lòng Người rưng rưng tha thiết, thì ngày ngày được nghe tiếng vượn hót, chim kêu ấy càng như nhắc nhở, giục giã công việc và khơi gợi suy nghĩ vì non sông, đất nước. Chỉ với hai câu mở đầu đã cho người đọc thấy nhà thơ yêu thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên đến mức nào; hay nói rộng ra, lòng yêu nước ở Bác Hồ không phải là cái gì xa vời mà chính là từ tình yêu thiên nhiên, yêu những gì gắn bó, thiết tha, gần gũi với cuộc sống thường nhật của chính mình và đồng loại, mà vì nó có thể hy sinh tất thảy để phụng sự suốt đời. Hơn nữa, trong hoàn cảnh thực tại của cuộc kháng chiến chín năm muôn vàn khó khăn, gian khổ thì thiên nhiên ở đây không chỉ “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” (thơ Tố Hữu), mà còn thực sự góp phần giải quyết những khó khăn trong sinh hoạt đời thường, nuôi dưỡng sức lực cho quân ta đánh giặc. Cái thực tại ấy được Bác Hồ khắc họa bằng nét mộc mạc, giản dị, chân thực trong bốn câu thơ đặc tả sinh hoạt đời thường rất gợi:
Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay.
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.
Chỉ bốn câu thôi, mà làm người đọc thấy được cuộc sống của những người đi kháng chiến ở núi rừng. Không phải là một cuộc sống hoàn toàn sung sướng “cơm gà, cá gỡ”, nhưng cũng không phải là một cuộc sống túng bấn đến mức “cơm không có mà ăn”, như hồi ấy có kẻ lầm tưởng những người kháng chiến ở rừng xanh núi ngàn. Cảnh sống ấy thật đơn giản mà lịch sự biết nhường nào, bởi cái tình người với nhau chan chứa, mặn nồng, tha thiết đến cái bắp ngô, củ sắn cũng bẻ đôi:
Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay.
Chỉ có thế, nhưng thật là thịnh soạn, với một từ “chén” đủ làm người đọc thấy niềm lạc quan của những người đi kháng chiến bất chấp khó khăn ở rừng xanh núi ngàn. Với niềm lạc quan ấy thì trước phong cảnh thiên nhiên kỳ thú, có thể thả bộ thư giãn sau những giây phút làm việc căng thẳng, hay ngồi ngẫm nghĩ giây lát bên chén rượu, ấm trà cũng là điều rất hợp lẽ, rất đời thường:
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.
Đến đây, người đọc càng thấy sự bình dị và niềm lạc quan ở Bác Hồ gấp bội phần. Nhất là ở hai câu kết:
Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.
Thì ta càng thấy sự bình dị, lạc quan ở Bác Hồ trong một hoàn cảnh khó khăn như năm 1947 giữa núi rừng Việt Bắc biết chừng nào.