Đề cương ôn thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 8 năm 2024 - 2025 (Sách mới) Ôn tập Văn giữa kì 2 lớp 8 sách KNTT, CD, CTST (Cấu trúc mới)
Đề cương ôn tập giữa kì 2 Ngữ văn 8 năm 2025 là tài liệu rất hữu ích gồm 3 sách Cánh diều, Chân trời sáng tạo và Kết nối tri thức.
Đề cương ôn tập giữa kì 2 Ngữ văn 8 được biên soạn theo cấu trúc 100% tự luận. Qua đó giúp các em học sinh lớp 8 nắm được kiến thức mình đã học trong chương trình giữa kì 2, rèn luyện và ôn tập một cách hiệu quả. Đồng thời giúp giáo viên dễ dàng ra đề thi cho các bạn học sinh. Ngoài ra các bạn xem thêm đề cương ôn tập giữa học kì 2 Toán 8, đề cương ôn tập giữa kì 2 môn Khoa học tự nhiên 8.
Đề cương ôn tập giữa kì 2 Ngữ văn 8 năm 2025 (Có đáp án)
- 1. Đề cương ôn tập giữa kì 2 Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo
- 2. Đề cương ôn tập giữa kì 2 Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
- 3. Đề cương ôn tập giữa kì 2 Ngữ văn 8 Cánh diều
1. Đề cương ôn tập giữa kì 2 Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo
TRƯỜNG THCS ………….
|
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP GIỮA KÌ 2 NĂM HỌC 2024 – 2025 MÔN: NGỮ VĂN 8 |
I. Yêu cầu cần đạt:
- Ôn tập củng cố và vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học về đọc hiểu văn bản truyện, thơ Đường luật
- Ôn tập và nắm chắc kiến thức tiếng Việt trong các bài 6,7
- Củng cố kiến thức về quá trình tạo lập và vận dụng tạo lập hoàn chỉnh bài văn phân tích tác phẩm truyện và phân tích một tác phẩm thơ, viết đoạn văn trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
- Vận dụng kiến thức, kĩ năng đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản đã học để thực hiện các đề minh họa kiểm tra đánh giá giữa học kì II.
- Góp phần phát triển các năng lực: tự học, giải quyết vấn đề.
II. Nội dung ôn tập
1. Phần đọc hiểu
a. Về văn bản truyện:
- Nhận biết được một số yếu tố hình thức (chi tiết tiêu biểu, cốt truyện, ngôn ngữ, nhân vật,…) và phân tích được nội dung (đề tài, chủ đề, thông điệp,…) mà nhà văn muốn gửi đến ngừoi đọc thông qua hình thức nghệ thuật của văn bản.
b. Về văn bản thơ Đường luật
- Xác định được giá trị nội dung, nghệ thuật của thơ trữ tình và thơ trào phúng trung đại làm theo thể Đường luật. Nhận biết, phân tích được giá trị thẩm mĩ của một số yếu tố thi luật (bố cục, niêm, luật, vần, nhịp, đối) của thơ thất ngôn bát cú, thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật và một số thủ pháp nghệ thuật của thơ trào phúng.
2. Phần tiếng Việt
- Nhận biết và hiểu tác dụng của các từ ngữ toàn dân, từ ngữ địa phương, biệt ngữ xã hội trong đời sống và trong tác phẩm văn học
- Hiểu được đặc điểm, tác dụng và biết sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, câu hỏi tu từ, từ tượng hình, từ tượng thanh
3. Phần viết
a. Viết bài văn phân tích tác phẩm truyện: nêu được chủ đề, dẫn ra và phân tích được tác dụng của một vài nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật được dùng trong tác phẩm
1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm (nhan đề, tác giả); nêu ý kiến khái quát về tác phẩm.
2. Thân bài:
+ Nêu nội dung chính của tác phẩm.
+ Nêu chủ đề của tác phẩm.
+ Chỉ ra và phân tích tác dụng của một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
3. Kết bài: Khẳng định ý nghĩa, giá trị của tác phẩm.
b. Viết bài văn phân tích tác phẩm thơ: chỉ ra và làm rõ những điểm nổi bật (thành công, có thể cả hạn chế) trong nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
1. Mở bài: Giới thiệu khái quát, ngắn gọn về tác giả bài thơ (nhan đề, đề tài, thể thơ…); nêu ý kiến chung về bài thơ.
2. Thân bài
+ Phân tích đặc điểm nội dung:
· Phân tích hình tượng thơ (thiên nhiên, con người…)
· Phân tích cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ.
· Khái quát chủ đề của bài thơ.
+ Phân tích một số nét đặc sắc về nghệ thuật:
· Cách sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú và tứ tuyệt Đường luật (theo mô hình chuẩn mực hay có sự cách tân).
· Những nét đặc sắc trong nghệ thuật tả cảnh, tả tình.
· Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ (từ ngữ, cấu trúc thơ, biện pháp tu từ…)
3. Kết bài: Khẳng định vị trí và ý nghĩa của bài thơ.
III. ĐỀ LUYỆN THỬ
ĐỀ SỐ 1
PHẦN I. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN (6,0 điểm)
Đọc ngữ liệu sau và trả lời các câu hỏi:
Một gia đình nọ mới dọn đến ở trong một khu phố mới. Sáng hôm sau, vào lúc ăn điểm tâm, đứa con thấy bà hàng xóm giăng tấm vải trên giàn phơi. “Tấm vải bẩn thật!" - Cậu bé thốt lên “- Bà ấy không biết giặt, có lẽ bà ấy cần một thứ xà bông mới thì giặt sẽ sạch hơn”. Người mẹ nhìn cảnh ấy nhưng vẫn im lặng. Cậu bé vẫn cứ tiếp tục lời bình phẩm ấy mỗi lần bà hàng xóm phơi tấm vải.
Ít lâu sau, vào một buổi sáng, cậu bé ngạc nhiên vì thấy tấm vải của bà hàng xóm rất sạch, nên cậu nói với mẹ “Mẹ nhìn kìa! Bây giờ bà ấy đã biết giặt tấm vải sạch sẽ, trắng tinh rồi". Người mẹ đáp: “Không, sáng nay mẹ đã lau kính cửa sổ nhà mình đấy”.
(Phỏng theo “Nhìn qua khung cửa sổ”, www.goctamhon.com)
Thực hiện các yêu cầu
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên là gì?
Câu 2: Hãy cho biết câu văn“Tấm vải bẩn thật!" thuộc kiểu câu nào trong các kiểu câu sau?
Câu 3: Tại sao nói lời kể trong câu chuyện ở văn bản trên là của người kể chuyện giấu mặt?
Câu 4: Chủ đề của văn bản trên là:
Câu 5: Qua lời đáp của người mẹ: "Không, sáng nay mẹ đã lau kính cửa sổ nhà mình đấy”, em thấy mẹ giải đáp, giải thích điều gì cho con?
Câu 6: Qua những lời bình phẩm của cậu bé, em nhận thấy đâu không phải là tính cách nổi bật của nhân vật?
Câu 7: Từ nội dung văn bản phần đọc hiểu em rút ra được bài học gì cho mình? (1 điểm)
Câu 8: Qua văn bản trên, em hãy viết đoạn văn khoảng 8-10 câu nêu ý nghĩa của thái độ sống tích cực. (2 điểm)
PHẦN II. VIẾT (4,0 điểm)
Viết bài văn phân tích câu chuyện “Nhìn qua khung cửa sổ”.
ĐỀ SỐ 2
I. ĐỌC HIỂU (6.0 điểm)
Đọc đoạn văn và thực hiện các yêu cầu:
Người bạn mới
Buổi học hôm nay có chuyện “hay” quá! Vừa về đến nhà Tú khoe ngay với mẹ:
- Mẹ ơi! Lớp con có một thằng…
Mẹ ngẩng lên:
- Sao lại thằng?
Tú vẫn hớn hở:
- Vâng! Một thằng mới vào học mẹ ạ! Buồn cười lắm!
Mẹ nhìn em:
- Buồn cười làm sao?
- Hí hí! Nó mặc áo con gái, mẹ ạ!
Mẹ hỏi:
- Áo con gái thế nào?
Tú vừa cười vừa kể rằng: Cái “thằng ấy” mới xin chuyển về, vào lớp 5C của con, nó mặc cái quần ngắn ơi là ngắn và cái áo sơ mi ở trong chiếc áo len thì lại cổ lá sen. Kiểu cổ áo của con gái. Thế có buồn cười không?
- Cái thằng ấy, mẹ ạ…
Mẹ lắc đầu:
- Sao con cứ gọi bạn là thằng thế nhỉ? Nói chuyện với mẹ, với bố, con không được gọi bạn là thằng nọ thằng kia. Bạn ấy tốt hay xấu mà con lại gọi thế?
Tú lúng túng:
- Con… con cũng chưa biết ạ!
- Không biết một tí gì hết?
Tú ngần ngừ, rồi thưa:
- Nó dát lắm mẹ ạ. Chúng con chế là mặc áo con gái, nó chỉ im lặng rồi đứng một mình thôi.
Nghe Tú nói, vẻ mặt mẹ vẫn không vui. Mẹ nhìn em có ý trách:
- Hết gọi bạn là thằng, rồi lại gọi là nó. Sao con không gọi hẳn tên bạn ra hoặc là: bạn ấy, bạn con được nhỉ? Tên bạn ấy là gì?
- Là Nam. Phó Văn Nam mẹ ạ. Buồn cười quá cơ!
- Thế thì đến mai, con hãy chơi với Nam và hỏi sao Nam lại mặc áo con gái nhé!
Cậu Nam ấy, hóa ra là một học sinh giỏi. Ngay bài toán tập đầu tiên làm ở lớp mới, không cần phải hỏi bạn ngồi bên cạnh, không xem bài của ai, cậu ấy đã được hẳn mười điểm. Mà chữ viết nữa chứ, rất đẹp.
Tú làm quen và biết được rằng nhà Nam nghèo thôi. Đến cái ti vi, bố mẹ cậu ấy cũng không có tiền để mua. Nam phải chuyển trường đi theo bố mẹ, vì mãi đến bây giờ cơ quan mới chia nhà cho. Trước đây là đi ở nhờ. Bố mẹ Nam có hai con. Chị Nam là con gái, áo quần mặc chật từ lúc bé, có cái nào mẹ lại mặc cho Nam. Mặc ở nhà và mặc ở trong cũng được. Mẹ Nam bảo Nam là: Bộ mặc ở ngoài thì cần phải đúng là của con trai. Lớn hơn nữa, thì thôi. Giờ còn bé thì mặc tạm. Mẹ sẽ dành tiền may cho Nam. Thương mẹ vất vả, nên Nam đã vâng lời. Tú nghe bạn kể mà thương bạn. Mặc áo thừa của chị, mà vẫn học giỏi, lại biết thương mẹ, chứ không đua đòi, thấy ai có cái gì cũng muốn có theo.
Ngay hôm đó, về nhà Tú khoe:
- Mẹ ơi! Bạn Nam ấy, hay lắm mẹ ạ!
Mẹ hỏi:
- Hay làm sao?
- Bạn ấy là học sinh giỏi và… ngoan, mẹ ạ!
Mẹ nhìn em. Ánh mắt mẹ cười vui…
(Phong Thu - Những truyện hay viết cho thiếu nhi, NXB Kim Đồng)
Lựa chọn đáp án đúng:
Câu 1: Văn bản “Người bạn mới” thuộc thể loại truyện gì?
Câu 2: Văn bản “Người bạn mới” viết về đề tài gì?
Câu 3: Đâu không phải là tác dụng của việc khắc họa nhân vật Tú ở phương diện hành động trong văn bản “Người bạn mới”?
Câu 4: Tác dụng của trợ từ trong câu: “Thế thì đến mai, con hãy chơi với Nam và hỏi sao Nam lại mặc áo con gái nhé!”
Câu 5: Tại sao mẹ không vui, và có ý trách Tú khi thấy Tú gọi bạn là “thằng ấy”, “nó”?
Câu 6: Tại sao lúc đầu Tú lại thấy Nam: “Buồn cười lắm!”, “Buồn cười quá cơ!”
Câu 7: Vì sao đến cuối câu chuyện, Tú thay đổi cách nhìn về Nam?
Câu 8: Bằng một đoạn văn khoảng 8 câu em hãy trình bày về bài học mà em nhận được sau khi đọc truyện “Người bạn mới” của Phong Thu.
II. PHẦN VIẾT:
Đề bài: Viết bài văn phân tích truyện “Người bạn mới”
ĐỀ SỐ 3
I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một người con. Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay răn reo như một quả trám khô. Khi bác mới đến phố, ai ai cũng chú ý đến đám con của bác: mười một đứa, mà đứa nhớn mới có mười bảy tuổi! Đứa bé nhất hãy còn bế trên tay.
Mẹ con bác ta ở một căn nhà cuối phố, cái nhà cũng lụp xụp như những căn nhà khác. Chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan đã gẫy nát. Mùa rét thì giải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc. Đối với những người nghèo như bác, một chỗ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi. Nhưng còn cách kiếm ăn? Bác Lê chật vật, khó khăn suốt ngày cũng không đủ nuôi chừng ấy đứa con. Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng. Những ngày có người mướn ấy, tuy bác phải làm vất vả, nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà. Đó là những ngày sung sướng. Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng lúa đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ dưới gió bấc lạnh như lưỡi dao sắc khía vào da, bác Lê lo sợ, vì không ai mướn bác làm việc gì nữa. Thế là cả nhà nhịn đói. Mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, con Phún, thằng Hy mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt con trâu chết. Bác Lê ôm ấp lấy con trong ổ rơm, để mong lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó. Thằng con lớn thì từ sáng đã cùng thằng Ba ra cánh đồng kiếm con cua, con ốc, hay sau mùa gặt, đi mót những bông lúa còn sót lại trong khe ruộng. Thật là sung sướng, nếu chúng mang về được một lượm, trong những ngày may mắn. Vội vàng bác Lê đẩy con ra, vơ lấy bó lúa, đem để xuống dưới chân vò nát, vét hột thóc giã lấy gạo. Rồi làm một bữa cơm nóng lúc buổi tối giá rét, mẹ con ngồi chung quanh nồi cơm bốc hơi, trong khi bên ngoài gió lạnh rít qua mái tranh.
Cuộc đời của gia đình bác Lê cứ như thế mà lặng lẽ qua ngày nọ rồi lại đến ngày kia. Tuy vậy cũng có những ngày vui vẻ. Những ngày nắng ấm trong năm, hay những buổi chiều mùa hạ, mẹ con bác Lê cùng nhau ngồi chơi ở trước cửa nhà. Các người hàng xóm cũng làm như thế, các bà mẹ ngồi rủ rỉ với nhau những câu chuyện kín đáo; các trẻ con nô đùa dưới quán chợ, còn các bà già thì ngồi giũ tóc cho chúng và gọt tóc chúng bằng mảnh chai sắc. Thằng cả ngồi đan lại cái lờ. Còn những đứa khác chơi quanh gần đấy. Trong những ngày hè nóng bức, con bác Lê đứa nào cũng lở đầu. Bác ta bảo là một cái bệnh gia truyền từ đời ông tam đại nên bác lấy phẩm xanh bôi cho chúng nó. Trông mẹ con bác lại càng giống mẹ con một đàn gà, mà những con gà con người ta bôi xanh lên đầu cho khỏi lẫn. Người phố chợ thường nói đùa bác Lê về đàn con đông đúc ấỵ Bác Đối kéo xe, người vui tánh nhất xóm, không lần nào đi qua nhà bác Lê mà không bảo:
- Bác phải nhớ thỉnh thoảng đếm lại con không quên mất.
Bác Lê bao giờ cũng trả lời một câu:
- Mất bớt đi cho nó đỡ tội.
Nhưng mọi người biết bác Lê quí con lắm. Tuy bác hết sức công bằng, người ta cũng thấy bác yêu thằng Hy hơn cả. Nó là con thứ chín, ốm yếu, xanh xao nhất trong nhà. Bác thường bế nó lên hôn hít, rồi khoe với hàng xóm, nội cả nhà chỉ có nó là giống thầy cháu như đúc. Rồi bác lại ôm con ngồi lặng yên một lát, như để nhớ lại chuyện gì đã lâu lắm.
(...)
Mấy năm sau, sự kiếm ăn ngày một thêm khó khăn. Buổi chợ họp không đông đúc như trước. Những tiếng nói chuyện trong sương lúc mờ sáng của các người hàng sáo gánh gạo kĩu kịt trên đò để đem xuống huyện bán, người ta không nghe thấy nữa. Cái đói kém đến chen lẫn trong các phố chợ. Bác Hiền ngày nào cũng gánh hàng đi rồi lại gánh hàng về. Còn thường thấy bác Đối kéo cái xe không, đi lảng vảng trong huyện và vợ bác cũng không hay nằm võng hát trống quân nữa. Bác Lê trong lúc ấy, đi khắp các nhà trong làng, xin làm mướn, nhưng các nhà có ruộng không ai mướn. Bác có làm không công, người ta cũng chỉ cho có nửa bát gạo, đùm bọc về không đủ cho ba đứa con ăn. Những ngày nhịn đói liên tiếp nhau luôn. Bác Lê thấy đàn con ngày một gầy còm, buổi chiều bác mệt nhọc chán nản trở về, hỏi thằng cả xem có đánh được ít cá nào không, thì nó buồn rầu khẽ lắc đầu, trả lời rằng các hồ ao người ta đã cấm không cho nó thả lờ nữa. Mùa rét năm ấy đến, giá lạnh và mưa gió lầy lội. Đàn con bác Lê ôm chặt lấy nhau rét run trong căn nhà ẩm ướt và tối tăm vì đèn đuốc không có nữa. Mấy gia đình ở phố chợ đều đói rét và khổ sở. Nhưng mỗi nhà đều lặng lẽ, âm thầm và chịu khổ một mình, không than thở với láng giềng hàng xóm lời gì, ai nấy đều biết cũng nghèo khốn như nhau.
(...)
Đêm ấy, bác Lê lên cơn sốt. Những cái rùng mình lạnh lẽo nối nhau lướt trên da bác, manh chiếu rách không đủ đắp ấm thân. Trong lúc mê sảng, bác Lê tưởng nhớ lại cả cuộc đời mình, từ lúc còn bé đến bây giờ, chỉ toàn những ngày khổ sở nhọc nhằn. Cái nghèo không biết tự bao giờ đã vào nhà bác. Lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi, và từ đó nó cứ theo liền bác mãi. Nhưng có người mướn làm thì không đến nỗi. Bác nhớ lại những buổI đi làm khó nhọc, nhưng bác vui vẻ được lĩnh gạo về cho con, những bữa cơm nóng mùa rét, những lúc thằng Hy và con Tý vui đùa giằng co chiếc bánh bác mua cho chúng.
Rồi đến những ngày đi mót lúa mỏi lưng trên cánh đồng, nhặt những bông lúa thơm, những lúc vò lúa dưới chân... Bác Lê nhớ lại cái cảm giác vui mừng khi thấy cạnh bông lúa sắc sát vào thịt da. Đấy còn là những ngày no đủ. Rồi đến những buổi chợ sáng, những ngày nhịn đói như hôm naỵ Bác mơ màng thấy vàng son chói lọi trong nhà ông Bá, thấy nét mặt gian ác của cậu Phúc, con chó tây nhe nanh chồm đến.
- Trời ơi! Sao tôi khổ thế này?
Tiếng kêu thất thanh của bác làm lũ trẻ giật mình, chúng nó ngồi dậy đưa mắt sợ hãi nhìn người mẹ. Hai hôm sau, bác Lê lại lên cơn mê sảng rồi chết. Người trong phố chợ gom góp nhau mua cho bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng, chôn vùi dưới bãi tha ma nhỏ ở đầu làng.
Khi trở về, qua căn nhà lạnh lẽo âm u, họ thấy mấy đứa con nhỏ con bác Lê ngồi ở vỉa hè. Con Tý đang dỗ cho thằng Hy nín khóc, nói dối rằng mẹ nó đi chợ một lát rồi sẽ về. Nhưng họ biết rằng bác Lê không trở về nữa và họ thấy một cái cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo khổ cứ theo đuổi mãi không biết bao giờ hết.
(Trích “Nhà mẹ Lê” – Thạch Lam)
Câu 1: Đoạn trích trên có sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt nào?
Câu 2: Đoạn trích đã kể về sự việc gì?
Câu 3: Trong đoạn văn, nhà văn Thạch Lam đã miêu tả ngoại hình bác Lê qua chi tiết nào?
Câu 4: Chủ đề của văn bản trên là gì?
Câu 5: Trong các nhóm từ sau, nhóm từ nào gồm những từ láy tượng hình xuất hiện trong đoạn trích?
Câu 6: Nhà văn Thạch Lam đã bày tỏ tình cảm gì đối với nhân vật bác Lê?
Câu 7: Trong câu văn sau: “Dưới manh áo nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt con trâu chết”, em hãy tìm và nêu tác dụng của một biện pháp tu từ mà em tìm được.
Câu 8: Viết đoạn văn (khoảng 8-10 dòng) trình bày ý kiến của em về sự đồng cảm với những người có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống.
II. VIẾT (4,0 điểm)
Đề bài: Viết bài văn phân tích truyện “Nhà mẹ Lê” của Thạch Lam.
2. Đề cương ôn tập giữa kì 2 Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
TRƯỜNG THCS ………….
|
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP GIỮA KÌ 2 NĂM HỌC 2024 – 2025 MÔN: NGỮ VĂN 8 |
Ôn tập kiến thức đã học từ tuần 19 đến tuần 24 (SGK Ngữ văn 8 tập 2)
I. Kiến thức trọng tâm:
1. Văn bản:
+ Truyện
+ Thơ Đường luật
* Yêu cầu nắm được nội dung, các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, ý nghĩa của văn bản, tóm tắt được truyện theo các sự việc chính, thể thơ, vần, nhịp…
2. Tiếng Việt:
Học sinh ôn lại các kiến thức tiếng Việt đã học từ HK I, ngoài ra còn các kiến thức trong HK II như: Từ ngữ toàn dân và từ ngữ địa phương, biệt ngữ xã hội; câu hỏi tu từ, từ tượng hình, từ tượng thanh; biện pháp tu từ: So sánh, ẩn dụ, nhân hóa, điệp ngữ, đảo ngữ...
* Yêu cầu:
- Nhận biết được các đơn vị kiến thức tiếng Việt.
- Nêu vài trò, tác dụng của các đơn vị kiến thức.
- Vận dụng kiến thức trong thực hành nói và viết
3. Viết:
Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội.
* Yêu cầu:
- Nắm vững thể loại nghị luận xã hội.
- Lập dàn ý và viết bài văn/ đoạn văn hoàn chỉnh.
Lưu ý: GV ra các dạng bài tập vận dụng kiến thức đã học vào việc giải quyết vấn đề thực tiễn.
II. Cấu trúc đề kiểm tra: 100% tự luận.
III. Một số bài tập tham khảo.
Phần I: Đọc hiểu
Bài tập 1:
Đọc văn bản sau:
“Bây giờ thì hắn trở thành mõ thật rồi. Một thằng mõ đủ tư cách mõ, chẳng chịu kém một anh mõ chính tông một tí gì: cũng đê tiện, cũng lầy là, cũng tham ăn.(…)
Không! Lộ sinh ra là con một ông quan viên tử tế, hẳn hoi. Và chỉ mới cách đây độ ba năm, hắn vẫn còn được gọi là anh cu Lộ.(…)
Những lời tiếng mỉa mai truyền từ người nọ đến người kia. Lộ thấy những bạn bè cứ lảng dần. Những người ít tuổi hơn, nói đến hắn, cũng gọi bằng thằng. Trong những cuộc hội họp, nếu hắn có vui miệng nói chõ vào một vài câu, nhiều người đã ra vẻ khinh khỉnh, không thèm bắt chuyện… Hắn nhận thấy sự thay đổi ấy, và bắt đầu hối hận. Nhưng sự đã trót rồi, biết làm sao được nữa? Hắn tặc lưỡi và nghĩ bụng: “Tháng ba này, thằng nào thằng ấy đến ba ngày không được một bát cơm, dãi nhỏ ra, hết còn làm bộ!…” Một ý phấn khích đã bắt đầu nảy mầm trong khối óc hiền lành ấy… Một hôm, trong một đám khao, Lộ vừa chực ngồi cỗ thì ba người ngồi trước đứng cả lên. Lộ ngồi trơ lại một mình. Mặt hắn đỏ bừng lên. Hắn do dự một lúc rồi cũng phải đứng
lên nốt, mặt bẽn lẽn cúi gầm xuống đất. Chủ nhà hiểu ba anh kia có ý gai ngạnh không chịu ngồi chung với mõ. Ông tìm một người khác, xếp vào cho đủ cỗ, và an ủi Lộ:
- Chú ăn sau cũng được.
Lộ ầm ừ cho xong chuyện, rồi nhân một lúc không ai để ý, lẻn ra về. Hắn tấm tức rất lâu. Trông thấy vợ, hắn cúi mặt, không dám nhìn thị, làm như thị đã rõ cái việc nhục nhã vừa rồi. Hắn thở ngắn thở dài, lắm lúc hắn muốn bỏ phắt việc, trả lại vườn cho họ đỡ tức. Nhưng nghĩ thì cũng tiếc. Hắn lại tặc lưỡi một cái, và nghĩ bụng: “Mặc chúng nó!…” Hắn chỉ định từ giờ chẳng đi ăn cỗ đám nào nữa là ổn chuyện… Nhưng khổ một nỗi, không đi, không được. Đám nào có ăn, tất nhiên chủ nhân không chịu để hắn về. Làm cỗ cho cả họ ăn còn được, có hẹp gì một cỗ cho thằng sãi? Để nó nhịn đói mà về, nó chửi thầm cho. Mà thiên hạ người ta cũng cười vào mặt, là con người bủn xỉn… Ấy, người ta cứ suy hơn, tính thiệt như vậy, mà nhất định giữ thằng sãi lại. Không ai chịu ngồi với hắn, thì hắn sẽ ngồi một mình một cỗ trong bếp, hay một chỗ nào kín đáo cho hắn ngồi…
Mới đầu, Lộ tưởng ngồi như thế, có lẽ là yên ổn đấy. Nhưng người ta tồi lắm. Người ta nhất định bêu xấu hắn. Trong nhà đám, một chỗ dù kín đáo thế nào, mà chả có người chạy qua, chạy lại. Mỗi người đi qua lại hỏi hắn một câu:
- Lộ à, mày?
Cũng có người đế thêm:
- Chà! Cỗ to đấy nhỉ? Đằng ấy hoá ra lại … bở!
A! Thế ra họ nói kháy anh cu Lộ vậy, cáu lắm. Hắn tặc lưỡi một cái và nghĩ bụng: “Muốn nói, ông cho chúng mày nói chán! Ông cần gì!…” Hắn lập tức bê cỗ về sân, đặt lên phản, ung dung ngồi. Nói thật ra, thì hắn cũng không được ung dung lắm. Tai hắn vẫn đỏ như cái hoa mào gà, và mặt hắn thì bẽn lẽn muốn chữa thẹn, hắn nhai nhồm nhoàm và vênh vênh nhìn người ta, ra vẻ bất cần ai. Sau cái bữa đầu, hắn thấy thế cũng chẳng sao, và bữa thứ hai đã quen quen, không ngượng nghịu gì mấy nữa. Bữa thứ ba thì quen hẳn. Muốn báo thù lại những anh đã cười hắn trước, tự hắn đi bưng lấy cỗ, và chọn lấy một cỗ thật to để các anh trông mà thèm. Bây giờ thì đến lượt người chủ không được bằng lòng. Có một mình nó ăn mà đòi một cỗ to hơn bốn người ăn!…
- Mẹ kiếp! Không trách được người ta bảo: “Tham như mõ”.
A! Họ bảo hắn là mõ vậy… Tham như mõ vậy!… Đã vậy thì hắn tham cho mà biết!… Từ đấy, không những hắn đòi cỗ to, lúc ăn hắn lại còn đòi xin thêm xôi, thêm thịt, thêm cơm nữa. Không đem lên cho hắn thì tự hắn xông vào chỗ làm cỗ mà xúc lấy. Ăn hết bao nhiêu thì hết, còn lại hắn gói đem về cho vợ con ăn, mà nếu vợ con ăn không hết, thì kho nấu lại để ăn hai ba ngày… Hà hà! Phong lưu thật!… Cho chúng nó cứ cười khoẻ đi!
Cứ vậy, hắn tiến bộ mãi trong nghề nghiệp mõ. Người ta càng khinh hắn, càng làm nhục hắn, hắn càng không biết nhục. Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục người là một cách rất diệu để khiến người sinh đê tiện…
Bây giờ thì hắn mõ hơn cả những thằng mõ chính tông. Hắn nghĩ ra đủ cách xoay người ta.
Vào một nhà nào, nếu không được vừa lòng, là ra đến ngõ, hắn chửi ngay, không ngượng:
- Mẹ! Xử bẩn cả với thằng mõ…”
(Nam Cao, Trích Tư cách mõ, NXB Hội nhà văn 1993)
Trả lời câu hỏi:
Câu 1. Xác định ngôi kể của truyện “Tư cách mõ”.
Câu 2. Tìm thán từ được tác giả sử dụng trong đoạn văn sau:
“Hà hà! Phong lưu thật!… Cho chúng nó cứ cười khoẻ đi!
Cứ vậy, hắn tiến bộ mãi trong nghề nghiệp mõ. Người ta càng khinh hắn, càng làm nhục hắn, hắn càng không biết nhục. Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân
cách của người khác nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục người là một cách rất diệu để khiến người sinh đê tiện…”
Câu 3. Xác định trình tự kể của truyện.
Câu 4. Phân tích nguyên nhân hình thành tư cách mõ của anh cu Lộ?
Câu 5. Câu nói: “Thì ra lòng khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm” gợi cho em những suy nghĩ gì?
Bài tập 2:
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
(Lược một đoạn: Truyện kể về gia đình Dần, đó là một gia đình nghèo khổ ở nông thôn Việt Nam vào thời điểm trước Cách mạng tháng Tám 1945. Dần là con gái lớn của một gia đình nông dân nghèo. Dần có nết rất hay làm, đi ở từ năm 12 tuổi, để nhà đỡ một miệng ăn, lại có được cái ăn, biết việc để làm- đấy là mong mỏi của mẹ Dần. Nhưng được ít bữa, Dần vẫn gầy, khóc xin mẹ ở nhà chứ không đi ở nhà bà Chánh. Thương mẹ, Dần đi ở được hai năm. Mẹ chết vì đi tả. Dần ở nhà coi sóc các em, để bố đi làm, nhưng cuộc sống mỗi ngày một khó thêm, tiền mất giá, thiên tai hết lụt lội và hạn hán. Một đêm sau khi tâm sự với con, bố Dần nói với Dần về chuyện sẽ gả Dần đi cho đỡ một miệng ăn, để bố Dần lên rừng kiếm kế sinh nhai. Dần được gả cho một gia đình đã dạm trước đó hơn một năm, vào cái ngày mẹ Dần mất, họ đã đưa cho bố Dần hai chục bạc để lo ma cho mẹ Dần. Nghe lời bố, Dần chấp nhận một đám cưới.)
Rồi ông ngồi lử thử. Bởi vì ông buồn lắm. Chỉ lát nữa là người ta rước Dần đi. Ðêm hôm nay, chỉ còn mình ông với hai đứa trẻ con. Nhà sẽ vắng ngắt vắng ngơ, chẳng khác gì ngày vợ ông mới chết đi. Rồi chỉ mươi bữa, nửa tháng là ông đã phải bỏ nốt hai đứa con trai để ngược... Chao ôi! Buồn biết mấy?... Ông đờ đẫn cả người. Ông nghĩ bụng rằng: giá Dần không phải về nhà người ta, thì có lẽ chẳng đời nào ông phải lên rừng; ông cứ ở nhà với ba con, bố con đùm bọc lấy nhau, bây giờ bỏ lại hai đứa bé mà đi, ông thương chúng nó quá... À thì ra ông phải đi nơi khác làm ăn, chẳng phải vì cớ gì khác mà chỉ vì Dần phải đi lấy chồng, Dần đi lấy chồng, không ai trông coi vườn đất, nhà cửa, con cái cho ông nữa... Ông buồn quá. Ông đáp lại những câu rất dài dòng của bà thông gia bằng những câu ngắn ngủn (…)
Ðến tối, đám cưới mới ra đi. Vẻn vẹn có sáu người, cả nhà gái nhà trai. Ông bố vợ đã tưởng không đi. Nhưng bà mẹ chồng cố mời. Vả lại nếu ông không đi, thì hai đứa bé cũng không thể đi mà Dần thì đang khóc lóc. Nếu chỉ có mình nó ra đi thì có lẽ nó cũng không chịu nốt. Ông đành kéo mấy cành rào lấp ngõ rồi đi vậy.
Dần không chịu mặc cái áo dài của bà mẹ chồng đưa, thành thử lại chính bà khoác cái áo ấy trên vai. Dần mặc những áo vải ngày thường nghĩa là một cái quần cồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to, một cái áo cánh nâu bạc phếch và cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên tay rách quá, đã xé cụt gần đến nách. Nó sụt sịt khóc, đi bên cạnh mẹ chồng. Chú rể dắt đứa em lớn của Dần. Còn thằng bé thì ông bố cõng. Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ...
(Trích Một đám cưới, Nam Cao, 1944)
Trả lời câu hỏi:
Câu 1. Xác định đề tài của truyện ngắn “Một đám cưới”.
Câu 2. Câu chuyện kể về đám cưới của nhân vật Dần trong tác phẩm diễn ra trong bối cảnh xã hội như thế nào?
Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng biện pháp tu từ trong câu văn "Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ".
Câu 4. Tiếng sụt sịt khóc của nhân vật Dần ở cuối đoạn trích gợi lên trong em suy nghĩ và cảm xúc gì về số phận người dân nghèo trong xã hội cũ?
Câu 5. Nhận xét về tình cảm mà nhà văn Nam Cao dành cho cô dâu Dần trong đoạn trích trên.
Bài tập 3:
Đọc văn bản sau:
BÁNH TRÔI NƯỚC
(Hồ Xuân Hương)
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
(Theo Kiều Thu Hoạch, Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, NXB Văn học, 2008)
Trả lời câu hỏi/ Thực hiện yêu cầu:
Câu 1. Bài thơ trên được làm theo thể thơ nào ?
Câu 2. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là ai?
Câu 3. Tác giả mượn đặc điểm của bánh trôi để khẳng định phẩm chất gì của người phụ nữ Việt Nam? Câu
4. Nêu tình cảm, thái độ của nhà thơ thể hiện qua bài thơ.
Câu 5. Từ hình ảnh bánh trôi nước, viết đoạn văn (7 – 9 dòng) nêu suy nghĩ của em về số phận và phẩm chất của người phụ nữ xưa.
Bài tập 4:
Đọc văn bản sau:
NỖI OÁN CỦA NGƯỜI PHÒNG KHUÊ(1)
(Khuê oán) - Vương Xương Linh
Phiên âm:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Dịch nghĩa:
Người đàn bà trẻ nơi phòng khuê không biết buồn,
Ngày xuân trang điểm lộng lẫy, bước lên lầu đẹp,
Chợt thấy sắc [xuân] của cây dương liễu(2) đầu đường,
Hối hận đã để chồng đi [tòng quân lập công, làm quan] kiếm tước hầu(3)!
Dịch thơ :
Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt, bước lên lầu.
Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để chàng đi kiếm tước hầu.
Chú thích:
NGUYỄN KHẮC PHI dịch (Có tham khảo bản dịch của TRẦN TRỌNG SAN, Thơ Đường, quyển I, Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966)
(1) Phòng khuê: phòng của phụ nữ quý tộc ngày xưa, cũng dùng để chỉ phòng của phụ nữ nói chung.
(2) Màu dương liễu: Màu của mùa xuân và tuổi trẻ, gợi lên khát vọng hạnh phúc. Ở đây, người thiếu phụ thấy màu dương liễu mà nhớ đến người chồng đang ra trận để “kiếm tước hầu”.
(3) Kiếm tước hầu: thời phong kiến, bề tôi lập được công lớn (thường là chiến công) thì được vua phong tước hầu. Ở đây, người chồng đi tìm kiếm tước hầu có nghĩa là đi ra trận lập công để được phong tước hầu. Khuê oán được sáng tác vào thời thịnh vượng của nhà Đường, các cuộc chiến tranh phần lớn là để mở mang bờ cõi.
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ trên.
Câu 2. Nhân vật trữ tình đang ở trong hoàn cảnh cụ thể nào?
Câu 3. Hình ảnh dương liễu trong văn bản có ý nghĩa gì?
Câu 4. Sau khi nhìn thấy màu dương liễu, nhân vật trữ tình có sự chuyển biến tâm trạng như thế nào? Hãy chỉ ra và lí giải sự chuyển biến tâm trạng đó.
Câu 5. Em hãy nhận xét tình cảm của nhà thơ được thể hiện trong đoạn trích.
Bài tập 5:
Đọc văn bản sau:
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ(*)
(Bà Huyện Thanh Quan)
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường(1)
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
(2) Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo(3),
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(4), Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt(5),
Nước còn cau mặt với tang thương
(6) Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường(7)
(Nguồn: Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sủng, Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953)
Chú thích:
(*) Thăng Long là kinh đô nước ta từ đời nhà Lý đến đời nhà Lê, đến đời Minh Mệnh nhà Nguyễn thì đổi ra tỉnh Hà Nội. Đi qua cố đô, Bà huyện Thanh Quan, đại biểu cho giai cấp sĩ phu Bắc Hà, bâng khuâng trước sự di đô đổi triều, đau lòng trước sự tang thương.
(1) Hí trường: Sân khấu diễn tuồng. Ở đây dùng ví với cuộc đời, vì nối tiếp hết lớp này tiếp lớp khác, luôn biến đổi.
(2) Tinh sương: Một năm, tinh là sao, mỗi năm di chuyển một vòng, sương theo thời tiết, mỗi năm giáng một lần.
(3) Thu thảo: Cỏ mùa thu.
(4) Tịch dương: Bóng mặt trời lúc chiều tà.
(5) Tuế nguyệt: Năm tháng.
(6) Tang thương: Do chữ "thương hải biến vi tang điền" (biển xanh biến thành ruộng dâu), chỉ việc sự vật thay đổi.
(7) Đoạn trường: Đau lòng đứt ruột.
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Những câu thơ nào gợi lên hình ảnh hoang tàn, phế tích của kinh thành xưa?
Câu 2. Tìm 03 từ Hán Việt được sử dụng trong văn bản.
Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của các biện pháp tu từ trong hai câu thơ sau:
“ Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt/ Nước còn cau mặt với tang thương". Câu 4. Nêu cảm nhận về tâm trạng của tác giả thể hiện trong văn bản. Câu 5. Văn bản gợi cho em suy nghĩ gì về sự cần thiết phải trân trọng những giá trị của quá khứ? Phần II: Viết
Đề 1: Trình bày suy nghĩ của em về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc xây dựng quê hương đất nước mình.
Đề 2: Trình bày suy nghĩ của em về thái độ, trách nhiệm của các bạn trẻ trước những đổi thay, biến động của cuộc sống.
3. Đề cương ôn tập giữa kì 2 Ngữ văn 8 Cánh diều
TRƯỜNG THCS ………….
|
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP GIỮA KÌ 2 NĂM HỌC 2024 – 2025 MÔN: NGỮ VĂN 8 |
I. PHẠM VI ÔN TẬP GIỮA KÌ 2
1. Phần đọc hiểu
a. Thơ Đường luật và thơ trào phúng
- Nhận biết được một số đặc điểm của các thể thơ Đường luật (bố cục, niêm, luật, vần, nhịp, đối) và phân biệt được các thể thơ Đường luật
- Phân tích được giá trị thẩm mĩ của một số yếu tố thi luật của thơ thất ngôn bát cú, thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật
- Phân tích được một số thủ pháp nghệ thuật của thơ trào phúng
- Xác định được giá trị nội dung, nghệ thuật của thơ trữ tình và thơ trào phúng trung đại làm theo thể Đường luật
- Nêu được những suy nghĩ, tình cảm của em về văn bản thơ Đường luật
b. Đảo ngữ, câu hỏi tu từ, từ tượng hình, từ tượng thanh
- Phân tích được tác dụng của biện pháp đảo ngữ, câu hỏi tu từ, từ tượng hình, từ tượng thanh có sử dụng trong câu văn, đoạn văn, đoạn thơ
- Viết được các câu văn, đoạn văn có sử dụng biện pháp đảo ngữ, câu hỏi tu từ, từ tượng hình, từ tượng thanh
2. Phần Viết
Viết bài văn phân tích một tác phẩm thơ
- Nhận biết được yêu cầu cần có về hình thức và nội dung cần có của kiểu văn bản nghị luận văn học (văn bản thơ)
- Viết đúng về hình thức của bài văn (bố cục, dung lượng, từ ngữ, diễn đạt…)
- Viết đúng, đủ về nội dung cần có của bài văn (chủ đề, đề tài)
- Về nội dung:
- Nêu được chủ đề, tư tưởng của tác phẩm văn học
- Nêu và phân tích được tác dụng của một vài nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật trong tác phẩm văn học (bố cục, niêm, luật, vần, nhịp, đối…)
- Về hình thức:
- Lập luận chặt chẽ, có bằng chứng tin cậy từ tác phẩm, diễn đạt mạch lạc
- Sử dụng các phương tiện liên kết hợp lí để giúp người đọc nhận diện được mạch lập luận
- Viết có các hình ảnh sử dụng biện pháp tu từ sáng tạo, có liên tưởng tưởng tượng độc đáo, ấn tượng
- Viết có liên hệ nội dung, nghệ thuật với các tác phẩm văn học thể loại
II. ĐỀ THI MINH HỌA GIỮA KÌ 2 NGỮ VĂN 8
ĐỀ MINH HỌA SỐ 1
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (5.0 điểm)
Cho ngữ liệu sau đọc và trả lời câu hỏi:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
(Chiều xuân – Anh Thơ)
Câu 1 (1.0 điểm): Bức tranh chiều xuân hiện lên trong bài thơ có đặc điểm gì?
Câu 2 (1.0 điểm): Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ: “Đò biếng nằm lười mặc nước sông trôi/Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng”?
Câu 3 (1.0 điểm): Tâm trạng của tác giả hiện lên như thế nào qua bài thơ?
Câu 4 (2.0 điểm): Viết một đoạn văn (7 – 10 dòng) thể hiện cảm nhận của anh/chị về bức tranh quê buổi chiều xuân được tác giả phác họa trong bài thơ.
PHẦN VIẾT (5.0 điểm)
Câu 1 (5.0 điểm): Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương.
ĐỀ MINH HỌA SỐ 2
Phần I. Đọc hiểu (6,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
ĐỨA CON NGƯỜI VỢ LẼ
Tư nằm dán mình trên giường. Đầu anh nặng trĩu trên chiếc gối bông cáu ghét. Mắt nhìn trân trân lên sàn nhà; lúc ấy anh không nghĩ ngợi gì. Hai tay nặng nề rời rạc, thỉnh thoảng lại cố gượng đập nhẹ xuống phản, để xua đuổi những nỗi tê tê buồn buồn chạy trong các ống xương. Anh xoay mình lại cho đỡ mỏi. Mắt se sẽ nhắm lại, và lắng nghe những cảm giác chạy trong người. Ruột anh xót như cào. Bụng hóp lại. Mặt phờ phạc. Anh thấy cáu kỉnh vẩn vơ, những muốn càu nhàu mấy tiếng. Tư đói quá, đói lả người đi. Đã hai hôm nay rồi, anh chưa có hột cơm nào vào trong bụng. [..]
Tư là con vợ ba. Thầy mẹ anh lấy nhau không phải là đôi bên bác mẹ gả bán, không phải nhà hiếm hoi, không phải tình yêu. Cha anh hơn mẹ anh đến ba mươi tuổi. Mẹ già anh lấy mẹ anh về để có người cáng đáng việc đồng. Vốn là người quê mùa, nên việc đồng mẹ anh rất thạo. Mẹ già anh rất chiều quý, họ chiều vậy chẳng qua là muốn chạy việc. Thầy anh mất năm trước, mẹ già anh mất năm sau. Nhà không làm ruộng nữa. Các anh Tư đều đi chợ trên, Tư phải thôi học ở nhà. Hai mẹ con lâm vào cảnh thất nghiệp. Ruộng không có mà làm; đi buôn – buôn xùng buôn xằng thôi cũng không có vốn. Anh em họ mạc thì thờ ơ lạnh nhạt, họ coi hình như không có mẹ con Tư trong gia đình nữa. Vả lại dẫu rằng nghèo, nhưng mẹ anh rất khái, không muốn chịu tiếng nhờ ai. Bà đi khâu thuê vá mướn kiếm gạo về nuôi con. Nhiều khi không có việc làm, mẹ con đành chịu đói. Những hôm ấy, bà thường trốn tránh, bà rất sợ phải nhìn cảnh mẹ con đói khát. Muốn cho mẹ cất gánh nặng, đã nhiều lần Tư xin làm phó nhỏ mấy hiệu thợ may và sơn guốc, nhưng họ đều từ chối vì dạo này hàng ế. Họ hứa đến tháng tám này sẽ gọi anh làm. Bất đắc dĩ anh phải đóng vai ăn bám.
Tư nghĩ liên miên: Anh thấy một niềm oán trách ngấm ngầm trong thâm tâm. Anh oán cha anh, người đã sinh ra anh mà săn sóc không chu đáo. Anh oán một cái gì không tên đã đẩy anh vào cảnh khốn quẫn. Tư nhếch một nụ cười thảm hại. Một ý tưởng chua chát hiện ra trong trí: Là một thằng con vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là thằng thừa trong gia đình. Tư thấy bứt rứt khó chịu. Những ý tưởng hỗn loạn ở trong óc. Anh thong thả nằm xuống. Mắt nhắm lại, muốn ngủ đi, để những tư tưởng hắc ám khỏi đến quấy nhiễu. Nhưng không sao ngủ được với cái dạ dày. [..]
Trên nhà, ông Cả vùng thức dậy. Ông vươn vai, bẻ khục, vặn mình kêu răng rắc. Ông vừa ngáp vừa gọi:
- Tư ơi?
- Dạ.
- Thoáng cái là lỉnh. Thoáng cái là lỉnh thôi.
Tư gượng gạo đứng lên, lệt xệt bước lên trên nhà. Ông Cả vứt một hào ra bàn, dịu giọng:
- Đi mua một hào phở?
- Vâng.
- Đem bát mà đi.
- Vâng.
Tư thất thểu lê bước. Tay bưng có bát phở mà mỏi rã rời. Khói bốc lên nghi ngút. Anh thèm quá. Trông những bánh tráng trắng phau mềm dẻo, ẩn hiện trong nước dùng váng sao, những miếng thịt bò mỏng tang xếp gọn ghẽ, những hành, mùi, hồ tiêu rắc lên trên, thơm ngào ngạt phả mãi vào mũi anh. Con tỳ, con vị như thức dậy, bụng sôi sùng sục, vần lên chuyển xuống. Nước bọt cứ ứa mãi ra, anh ao ước được một bát.
Tư đặt bát phở lên bàn cho anh, rồi lặng lẽ ra ngoài thềm. Ông Cả vừa ăn vừa cắm cáu gắt:
- Gớm! Phở! Ăn rẳng như đấm vào họng!
Tư se sẽ nuốt nước bọt. Thật là mỉa mai. Ăn xong, buông đũa buông bát, ông Cả vội vã cắp cặp ra đi. Ông còn cay mấy hội bạch cược hôm qua.
Ông Cả đi rồi. Tư cũng chẳng buồn ra đóng cửa. Anh định đem bát ra chậu ngâm, nhưng lại thôi, là vì anh thấy còn đến lưng bát nước dùng ăn thừa. Lúc khác ai còn giữ lại làm gì? Nhưng lúc này.. Tư đưa bát phở lên mũi ngửi, mùi thơm ngào ngạt bốc lên. Anh nếm một ngụm chèm chẹp miệng. Trời ơi sao mà ngon thế! Anh ước ao giá mà được một bát cơm nguội trộn ăn thì phải biết! Nghĩ đến cơm nguội, anh lại nhớ đến một hôm, cũng đói như hôm nay. Thân, bạn chí thiết của anh, đến chơi nèo mãi anh về nhà. Rồi mời anh:
- Nhà đi vắng cả, chỗ anh em với nhau, tôi nói thật: Anh ở đây ăn cơm nguội - cơm nguội thôi - với tôi cho vui nhé.
Cái bữa cơm nguội với cà ấy sao mà ngon thế! Tư còn nhớ mãi, có lẽ suốt đời: Tư so sánh ông Cả với Thân. Nỗi căm hờn nổi dậy trong lòng. Hai mắt anh quắc lên một cách dữ dội. Anh nghiến răng ném mạnh "bát phở" ra sân. Tiếng bát vỡ làm cho lòng anh dịu. Anh bật cười thấy mình vô lý và thấy tiêng tiếc. Tư thấy mỏi rã rời. Toàn thân run lên. Anh nằm lả xuống.
Chiều tàn đã lâu. Cảnh vật thẫm lại. Gió khua lá lao xao. Những lùm cây đen thẫm lắc lư trên nền trời sẫm đục. Thân, một tay ôm gói bọc giấy báo, một tay đẩy mạnh cánh cửa. Một tiếng rít rền trong yên lặng. Anh xăm xăm bước, nhớn nhác nhìn vào mấy gian nhà tối om. Miệng lẩm bẩm:
- Quái sao nhà cửa để tối thế này!
Thân im bặt vì biết mình nhỡ lời. Anh thong thả bước lên nhà. Đặt gói lên bàn, Tư vẫn nằm rũ trên tràng kỷ không biết bạn đến. Thân lay bạn:
- Tư! Tư!
Tư thều thào:
- Thân đấy à?
- Ừ, Tư ngủ à?
Giọng Tư nhỏ đầy mệt nhọc:
- Không.. Thân vào tôi cũng biết, nhưng mệt.. quá..
Thân ái ngại nhìn bạn trong bóng tối. Đoạn anh nói rất nhẹ nhàng:
- Tôi đem cho Tư ít hạt mít đây. Tư ăn đi.
Tư cảm động quá. Nước mắt chảy ròng ròng, anh nghẹn ngào:
- Thân tốt với tôi quá.
- Ồ! Anh.
Đôi bạn ngồi âm thầm trong bóng tối. Tiếng Tư nhai hạt mít trong im lặng. Tư chợt nghĩ đến mẹ, anh ngóc đầu bảo bạn:
- Thân cất đi cho tôi một nửa nhé.
Anh định tâm để dành cho mẹ, Thân ôn tồn:
- Ừ, còn nhiều anh ạ.
Tư lại nghĩ đến mình, đến tương lai. Một tương lai mờ mịt của đứa con vợ lẽ. Anh thở dài não ruột.
- Gì thế anh?
- Không.
Hai người im lặng.
(Đứa con người vợ lẽ, Kim Lân, Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 33, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 475 - 479)
Câu 1. Truyện ngắn trên được kể theo ngôi thứ mấy?
Câu 2. Đề tài của truyện ngắn trên là?
Câu 3. Trong truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ, thầy Tư lấy mẹ Tư vì điều gò>
Câu 4. Nhân vật chính của truyện ngắn là ai?
Câu 5 Nêu tác dụng của việc sử dụng ngôi kể trong văn bản?
Câu 6 Nhận xét sự kết nối giữa lời người kể chuyện, lời nhân vật trong đoạn sau: "Tư đưa bát phở lên mũi ngửi, mùi thơm ngào ngạt bốc lên. Anh nếm một ngụm chèm chẹp miệng. Trời ơi sao mà ngon thế! Anh ước ao giá mà được một bát cơm nguội trộn ăn thì phải biết"?
Câu 7 Chi tiết "Anh oán một cái gì không tên đã đẩy anh vào cảnh khốn quẫn. Tư nhếch một nụ cười thảm hại. Một ý tưởng chua chát hiện ra trong trí: Là một thằng con vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là thằng thừa trong gia đình" cho ta hiểu gì về nỗi lòng của nhân vật Tư?
Câu 8 Từ nhân vật Tư trong văn bản, anh/chị suy nghĩ gì về tác động của hoàn cảnh sống đối với con người?
Phần II. Viết (4,0 điểm)
Anh/ chị hãy viết bài văn phân tích nhân vật Tư trong văn bản Đứa con người vợ lẽ của Kim Lân.
ĐÁP ÁN ĐỀ THI MINH HỌA
Phần I. Đọc hiểu
Câu |
Nội dung cần đạt |
Điểm |
Câu 1 |
Ngôi thứ ba |
0,5 điểm |
Câu 2 |
Thân phận tủi nhục, khó khăn của người vợ lẽ và đứa con riêng |
0,5 điểm |
Câu 3 |
Vì để cáng đáng việc đồng |
0,5 điểm |
Câu 4 |
Tư |
0,5 điểm |
Câu 5 |
- Việc sử dụng ngôi kể thứ ba có tác dụng: + Tạo nên sự khách quan, trung thực. Ngôi thứ ba cho phép người kể chuyện đứng ngoài tác phẩm, kể lại câu chuyện một cách khách quan, trung thực. Điều này giúp người đọc có cái nhìn toàn diện, chân thực về cuộc sống, con người. Trong đoạn trích, việc sử dụng ngôi thứ ba giúp nhà văn kể lại sự tủi nhục của thân phận con trai người vợ lẽ của Tư cùng với biết bao suy nghĩ bên trong con người anh mà không hề đơn điệu như ngôi thứ nhất. + Thể hiện được nhiều góc nhìn khác nhau. Ngôi thứ ba cho phép người kể chuyện kể lại câu chuyện từ nhiều góc nhìn khác nhau, bao gồm góc nhìn của nhân vật, góc nhìn của người kể chuyện, góc nhìn của người đọc. Điều này giúp người đọc hiểu rõ hơn về câu chuyện, về nhân vật, về cuộc sống. |
0,5 điểm |
Câu 6 |
Trong đoạn trích trên, lời giữa người kể chuyện và lời của nhân vật Tư đan xen với nhau, sự đan xen ấy của tác giả tạo nên sự sinh động hấp dẫn, thể hiện được suy nghĩ, tâm trạng của Tư khi đưa bát phở lên ngửi dù Tư không trực tiếp nói ra. |
1,0 điểm |
Câu 7 |
Chi tiết "Anh oán một cái gì không tên đã đẩy anh vào cảnh khốn quẫn. Tư nhếch một nụ cười thảm hại. Một ý tưởng chua chát hiện ra trong trí: Là một thằng con vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là thằng thừa trong gia đình" cho ta hiểu gì về nỗi lòng đau xót của một con người thừa. Tư là con của vợ lẽ, sinh ra muộn nhất và không có bất kỳ địa vị, vai trò gì trong gia đình và bị những người anh em cùng cha khác mẹ của mình xa lánh. Tư hiểu rõ điều đó, hiểu rõ thân phận của mình và mẹ. |
1,0 điểm |
Câu 8 |
- Hoàn cảnh sống là môi trường, điều kiện sống của con người. Hoàn cảnh sống bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, như: Môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường gia đình. - Hoàn cảnh sống có tác động rất lớn đến con người, cả về mặt tích cực và tiêu cực. - Hoàn cảnh sống ảnh hưởng đến nhân cách của mỗi người. Hoàn cảnh sống tốt, những mối quan hệ, giao tiếp lành mạnh thì nhân cách sẽ được định hình theo một chiều hướng tích cực và ngược lại. - Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của hoàn cảnh sống đối với sự hình thành và phát triển nhân cách còn tùy thuộc vào lập trường, quan điểm, thái độ của cá nhân. |
0,5 điểm |
Phần II. Viết
Câu |
Đáp án |
Điểm |
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Mở bài giới thiệu được tác giả, tác phẩm. Thân bài phân tích tác phẩm truyện. Kết bài nêu được cảm nghĩ của bản thân về tác phẩm truyện. |
0,25 điểm |
|
b. Xác định đúng yêu cầu của đề: Phân tích nhân vật Tư trong truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ - Kim Lân |
0,25 điểm |
|
c. Bài viết có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau song cần đảm bảo các ý sau: A. Mở bài: - Giới thiệu tác giả Kim Lân và văn bản Đứa con người vợ lẽ - Giới thiệu nhân vật Tư B. Thân bài: - Khái quát nội dung nghệ thuật văn bản Đứa con người vợ lẽ - Phân tích đặc điểm nhân vật Tư: + Số phận thua thiệt, bất hạnh: Con vợ ba, anh em họ mạc thờ ơ lạnh nhạt.. + Cư xử đúng mực: Hiểu rõ phận ăn bám nên kính phục người anh cùng cha khác mẹ, lầm lũi thực hiện những điều anh ta sai bảo. + Thương mẹ: Muốn mẹ bớt gánh nặng, nhiều lần Tư xin làm phó nhỏ mấy hiệu thợ may và sơn guốc, để dành một nửa túi hạt mít cho mẹ. + Có lòng tự trọng: Đang trong cơn đói nhưng nghiến răng ném mạnh bát phở ra sân. C. Kết bài: Cảm nhận khái quát về tác phẩm truyện ngắn |
4,0 điểm |
|
d. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt. |
0,25 điểm |
|
e. Sáng tạo: Diễn đạt sáng tạo, sinh động, giàu hình ảnh, có giọng điệu riêng. |
0,25 điểm |
|
Lưu ý: Chỉ ghi điểm tối đa khi thí sinh đáp ứng đủ các yêu cầu về kiến thức và kĩ năng. |
...........
Tải file về để xem toàn bộ nội dung đề cương
Chọn file cần tải:
Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

-
Hiền TrầnThích · Phản hồi · 1 · 20/03/23
-
Tram Nguyen thiThích · Phản hồi · 0 · 09:58 21/03