Văn mẫu lớp 12: Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt (3 Dàn ý + 11 mẫu) Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt
Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt tổng hợp 11 mẫu cực hay kèm gợi ý cách viết, được biên soạn nhằm giúp cho các em học sinh có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng viết văn ngày một tiến bộ hơn.
TOP 11 bài phân tích cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt siêu hay dưới đây sẽ là người bạn đồng hành hỗ trợ cho các em trau dồi vốn từ của mình và hoàn thiện bài khi ôn tập, rèn luyện và làm các bài kiểm tra. Đồng thời qua đó hiểu được ý nghĩa của cuộc đối thoại giữa Hồn và xác. Ngoài ra để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm nhiều tài liệu khác tại chuyên mục Văn 12.
Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt
- Dàn ý màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt
- Cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt - Mẫu 1
- Cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác - Mẫu 2
- Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 3
- Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 4
- Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 5
- Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 6
- Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 7
- Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 8
Dàn ý màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt
I. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Lưu Quang Vũ, tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt: Lưu Quang Vũ là một hiện tượng của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX, là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm xuất sắc của ông là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
- Dẫn dắt để giới thiệu đến nội dung cần phân tích: Nổi bật trong tác phẩm là cuộc đối thoại của Hồn Trương Ba với xác của hàng anh hàng thịt.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại của Hồn và Xác
Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích đã cho Hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa chết. Khi trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp phải rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, ngay đến gia đình của ông cũng cảm thấy xa lạ... Bản thân Trương Ba cũng đau khổ vì phải sống trái với tự nhiên. Đặc biệt là khi xác anh hàng thịt đã làm cho Trương Ba nhiễm một vài thói xấu. Trước nguy cơ bị tha hóa, Hồn Trương Ba khao khát được tách ra khỏi xác thịt đui mù, thô lỗ.
2. Phân tích cuộc đối thoại
a. Hồn Trương Ba:
- Bộc lộ sự chán chường, sợ hãi khi phải sống trong Xác hàng thịt: “Tôi chán cái chỗ không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta muốn rời xa mi ngay tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỏ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”.
- Cho rằng mình vẫn có một đời sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.
- Xem xác anh hàng thịt chỉ là cái vỏ bên ngoài: âm u, đui mù, không có tư tưởng, không có cảm xúc, nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém.
=> Hồn Trương Ba phủ nhận vai trò của xác anh hàng thịt.
- Thái độ: Từ chối quả quyết, mạnh mẽ sang ấp úng, bịt tai lại, tuyệt vọng.
b. Xác anh hàng thịt:
- Cho rằng Hồn Trương Ba không thể tách khỏi xác anh hàng thịt, mọi việc làm, hành động của Hồn Trương Ba đều chịu sự chi phối của xác anh hàng thịt: (Hồn Trương Ba đã có cảm giác xao xuyến, khao khat khi đứng bên vợ hàng thịt đến nỗi chân tay run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại; đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn mà ông cho là dung tục như tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi; đã sử dụng vũ lực mà ông cho là tàn bạo để tát thằng con toé máu mồm, máu mũi…).
- Thuyết phục Hồn Trương Ba chiều theo những thói quen tầm thường của mình, chấp nhận tiếp tục sống trong thân xác của mình.
- Thái độ: Từ giễu cợt sang quả quyết, mạnh mẽ, lấn át và cuối cùng thắng thế.
c. Ý nghĩa của cuộc đối thoại
- Cuộc đấu tranh giữa phần con và phần người, giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng.
- Phê phán những kẻ nương theo lối sống dục vọng tầm thường, một mặt vạch ra quan niệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật chất và những nhu cầu của thể xác.
- Sau cuộc đối thoại này, Trương Ba đã nhận ra rằng được sống là người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn cố và theo đuổi còn quý giá hơn.
III. Kết bài
Khái quát ý nghĩa của cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt . Cảm nhận chung về tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
..............
Cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt - Mẫu 1
Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có bảy hồi, phần trích học sách giáo khoa là hồi kết. Thông qua bi kịch của Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người đọc, người xem vẻ đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã chuyển thể thành vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lý và nhân văn sâu sắc. Qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, Lưu Quang Vũ đã làm rõ khát vọng được sống là chính mình của Hồn Trương Ba.
Trong đoạn trích Hồn Trương Ba da hàng thịt, lúc này Trương Ba đã bắt đầu nhận ra sự thay đổi của bản thân, ông dần sa ngã, chiều chuộng theo những sở thích của cái xác, mà quên đi những thói quen, những thú vui xưa kia của mình. Sự thật ấy khiến Trương Ba vô cùng đau khổ và dằn vặt khi phải luôn đấu tranh chống lại những ý muốn tầm thường của xác thịt để giữ lại cho mình sự trong sạch, thanh cao một đời gìn giữ.
Trương Ba muốn rời khỏi xác thịt, muốn thoát khỏi bi kịch tha hóa của bản thân. Trương Ba đã có cuộc tranh luận gay gắt xác người hàng thịt, tuy nhiên trong trận tranh cãi ấy, Trương Ba lại trở thành kẻ đuối lý, liên tục bị cái xác vạch trần, mỉa mai, thậm chí là chế giễu, điều đó khiến ông vừa đau khổ vừa căm tức.
Ngay lúc vừa đối diện ba mặt một lời với cái xác, Trương Ba đã vội vàng phê phán, chỉ trích cái xác chỉ là thứ “xác thịt đui mù”, “vô tri, không có tiếng nói, “không có tư tưởng cảm xúc”,… nhằm giải phóng nỗi căm giận trong lòng, cũng như để áp chế sự ngông cuồng, ngạo mạn của nó.
Thế nhưng đáp lại lời chỉ trích của Trương Ba cái xác lại tỏ ra rất bình tĩnh, ung dung, nó chỉ ra những sự thay đổi ghê gớm của ông bao gồm việc thích ăn thịt, uống rượu, thèm tiết canh, rồi thì có lòng ham muốn nhục dục khi đứng trước người vợ trẻ trung của hàng thịt.
Từ khi sống trong thân xác mới, Trương Ba không còn thiết tha với cái thú cờ vây tao nhã, không còn khéo léo khi chăm sóc vườn tược, trở nên nóng tính, cục cằn, điều đó bộc lộ rõ khi ông đã dùng sức mạnh của người hàng thịt để tát anh con trai đến hộc cả máu mồm chỉ vì anh này muốn bán cái vườn để mở sạp thịt lợn.
Trước những lời vạch trần của cái xác, Trường Ba vẫn cố cự lại bằng những lời lẽ yếu ớt, ông đổ tại rằng do xác thịt đã sai khiến, do cái xác đã làm ông trở nên thay đổi, tha hóa. Ông khẳng định mình và cái xác đui mù ấy rõ ràng là hai cá thể tách biệt chẳng hề có sự liên quan gì tới nhau, tất cả những thay đổi đều là của xác thịt còn bản thân ông vẫn giữ nguyên một tâm hồn “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”.
Tuy nhiên trước cái lý lẽ yếu ớt ấy của Trương Ba, cái xác đã lập tức phản bác, thẳng thừng phê phán ông là người ưa sĩ diện, luôn lấy cái xác ra để che đậy cho hành vi thỏa mãn ham muốn thú vui tầm thường, còn bản thân thì vẫn tự nhận mình là thanh cao, thánh khiết, để lòng được thanh thản, không cảm thấy dằn vặt.
Sự vạch trần ấy đã làm Trương Ba trở nên đuối lý, bởi lẽ cái xác đã nói đúng, bản thân ông không thể chiến thắng những suy nghĩ tầm thường, thuận theo sở thích của cái xác, không thể bảo vệ bản ngã, giữ gìn được những nét đẹp tâm hồn mà bản thân đã xây dựng bấy lâu nay. Điều đó đối với Trương Ba là một sự đau khổ tột cùng, một cú sốc lớn, cũng chính là sự xấu hổ, nhục nhã khi bản thân trở nên sa ngã, trở thành một người không phải mình, sau khi đã sống được hơn hai phần ba cuộc đời.
Cuộc đối thoại kết thúc trong sự bế tắc và đau khổ của Trương Ba. “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”. Lời độc thoại cho thấy cuộc đấu tranh nội tâm vô cùng dữ dội ở Trương Ba.
Thực ra cuộc đấu tranh đó đã được tác giả Lưu Quang Vũ gửi gắm qua màn đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt. Đó là cuộc đấu tranh giữa xác và hồn; giữa cao cả và đê hèn; giữa tốt và xấu; giữa cao thượng và dung tục; giữa khát vọng và dục vọng. Đó cũng là cuộc đấu tranh để hoàn thiện nhân cách.
Cuộc đấu tranh này phần thắng nghiêng về xác nhưng bản thân hồn Trương Ba đã không chịu lép vế, không khuất phục mà đã tìm mọi cách để được sống là chính mình – đây chính là nhân cách cao đẹp của Trương Ba. “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!”. Lời thoại có tới hai lần phủ định “tôi không thể”; “không thể được” cho thấy quyết tâm rời bỏ xác hàng thịt là ý chí sắt đá của Trương Ba khi thấm thía nghịch cảnh trớ trêu của mình.
“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Câu nói thể hiện nghịch cảnh của Trương Ba, sự bất nhất của cái bên trong và cái bên ngoài: “bên trong” chính là linh hồn, cảm xúc, tư tưởng, nhân cách cao đẹp của Trương Ba. Hồn là sự tinh anh chi phối điều khiển thể xác.
Đối lập bên trong là “bên ngoài” – xác thịt thô phàm của anh hàng thịt. Nhưng “cái bên ngoài” cần hiểu theo nghĩa rộng là hoàn cảnh sống, là bản năng, là nhu cầu tự nhiên, là dục vọng bản năng. Sự tha hóa của linh hồn Trương Ba chính là do linh hồn đã nhượng bộ, đã tự bán mình, tự thỏa hiệp với nhu cầu bản năng. Đây chính là sự dằn vặt, đau khổ, trăn trở của Trương Ba. Cả hai không thể hoà hợp bởi không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi.
“Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Đây là khát vọng mãnh liệt của Trương Ba, khát vọng được sống hòa hợp. “Toàn vẹn” nghĩa là phải có sự hòa hợp giữa bên trong và bên ngoài, giữa nội dung và hình thức, giữa thể xác và linh hồn. Không thể có cuộc sống nào mà “hồn này xác kia” được. Cuộc sống không thuận theo lẽ tự nhiên, không thuận theo tạo hóa, sống mà không được là chính mình thì đó là một bi kịch nghiệt ngã.
Ý chí mạnh mẽ của Trương Ba xuất phát từ khát vọng “được sống là chính mình”, và để “được sống là chính mình” lúc này, Trương Ba không có con đường nào khác là cái chết. Vì chỉ khi chết đi, ông mới thực sự là chính mình, mới hoàn nguyên được vẻ đẹp cao khiết của linh hồn mình. Với Trương Ba, thiên đường đẹp nhất để linh hồn có thể trú ngụ sau khi chết chính là phục sinh trong trái tim của những người yêu quý ông.
Đế Thích vẫn muốn Trương Ba tiếp tục tồn tại nhưng Trương Ba đã thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù bằng một việc đúng khác”.
Ông cũng khuyên nhủ Đế Thích phải làm cho bằng được việc đúng, đó chính là làm cho cu Tị được sống lại. Những suy nghĩ tốt đẹp của Trương Ba và đức hi sinh cao thượng của ông cuối cùng cũng thay đổi được tư duy của Đế Thích. Cu Tị được sống còn Trương Ba trở về với chính mình chứ không còn là “cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt nữa”.
Hồn Trương Ba nhập vào cảnh vật quen thuộc trong gia đình và gắn bó trong trái tim những người yêu thương ông. Trương Ba đã phục sinh linh hồn mình trong trái tim của những người yêu thương. Linh hồn ông mãi mãi bất tử trong màu xanh cây vườn và bất tử trong những người yêu mến ông.
Con người tồn tại gồm phần con và phần người. Phần con thuộc về bản năng. Phần người thuộc về nhân cách, sự cao thượng đẹp đẽ của tâm hồn. Phần con và phần người đã tạo ra con người đúng nghĩa. Ở đây hai hình tượng hồn và xác cũng là ẩn dụ cho phần con và phần người. Một bên đại diện cho những gì đẹp đẽ, thanh cao; một bên đại diện cho sự thô tục, thô phàm.
Tác giả Lưu Quang Vũ nhấn mạnh không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, được hoà hợp xác và hồn, trong và ngoài, nội dung và hình thức trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất: “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
Muốn sống đúng là chính mình thì mỗi chúng ta cần phải biết hài hòa giữa việc chăm lo cho linh hồn cũng như biết quý trọng và chăm sóc cho những nhu cầu thiết yếu của thể xác. Thông qua đó Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê phán hai hạng người: một loại chỉ biết trau chuốt vẻ ngoài và chạy theo những ham muốn vật chất mà không chăm lo cho đời sống tâm hồn. Loại khác thì luôn coi thường những giá trị vật chất, bỏ bê sự chăm sóc bản thân chỉ khư khư giữ cho linh hồn được cao đẹp.
Thông qua màn đối thoại giữa hai nhân vật hồn Trương Ba và xác hàng thịt, Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng phải sống là chính mình đó mới chính là hạnh phúc thật sự của con người. Bởi vậy trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản thân.
Có như vậy chúng ta mới được là mình – được là chính mình toàn vẹn. Làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung, Lưu Quang Vũ đã sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật: Sáng tạo lại cốt truyện dân gian. Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm. Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống truyện. Có chiều sâu triết lý khách quan.
Cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác - Mẫu 2
Trọng tâm của lớp kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác Trương Ba. Do đó lời thoại ở đây vừa có thể coi là độc thoại vừa có thể coi là đối thoại. Nó là một lời thoại đặc biệt, vừa chứa đựng mâu thuẫn vừa mang tính hành động, thúc đẩy tình huống kịch phát triển đến mức cao nhất. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư tưởng triết lý của vở kịch. Cuộc đối thoại đó cùng với thái độ và những lời đối thoại của những người ruột thịt thân yêu nhất đã dẫn đến hành động quyết liệt - kiên quyết chối từ một cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia của Trương Ba.
Lưu Quang Vũ được đánh giá là nhà viết kịch xuất sắc trong thời kỳ hiện đại. Đương thời khi còn sống, kịch của anh luôn có mặt trên sàn diễn của nhiều đoàn nghệ thuật trong cả nước. Trong lịch sử sân khấu nước ta, thời kỳ kịch của Lưu Quang Vũ có lẽ là thời kỳ sôi động, giàu sức sống nhất. Những năm 80, kịch của Lưu Quang Vũ xuất hiện đã làm thay đổi tư duy của người biểu diễn cũng như của công chúng yêu sân khấu. Nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình đã đánh giá cao tài năng, tâm huyết và những đóng góp của Lưu Quang Vũ đối với nền sân khấu nói riêng và với nền văn học nói chung. Anh cũng là một trong những "người đi trước” trong phong trào đổi mới văn hoá văn nghệ, dùng ngòi bút của mình góp phần đem lại những điều tốt đẹp cho con người và xã hội.
Kịch bản của Lưu Quang Vũ dù được sáng tác nhanh với một số lượng lớn: hơn 50 vở kịch trong khoảng thời gian chưa đầy 10 năm, nhưng hầu hết đều đạt đến một chất lượng nghệ thuật nhất định. Ngay cả những vở được coi là không thành công khi đã lên sàn diễn cũng có một giá trị văn học không thể phủ nhận. Chúng ta đều biết rằng vở diễn nếu tách rời khỏi hoạt động sân khấu sẽ mất đi phần “động" chỉ còn lại phần “tĩnh”. Sân khấu đem đến cho kịch một đời sống thứ hai, sống động, hấp dẫn và sân khấu cũng quy định cho kịch những đặc tính nhất định, nên kịch có những đặc trưng riêng khác hẳn với thơ và tiểu thuyết. Trước khi đến với sân khấu Lưu Quang Vũ đã là người làm thơ, viết văn có phong cách riêng. Anh đã kết hợp và phát huy được những thế mạnh của mình khi đến với loại hình nghệ thuật có ý nghĩa tổng hợp như sân khấu. Từ thơ và chất thơ trong văn xuôi, rồi từ chất văn xuôi của đời sống, Lưu Quang Vũ đã chuyển sang viết kịch và đã gặt hái được những thành công rực rỡ. Ở đó vẫn tiếp tục những nguồn mạch được khai mở từ khá sớm nhưng Lưu Quang Vũ đã chín chắn, tỉnh táo hơn. Kịch là nơi Lưu Quang Vũ có thể bộc lộ trực tiếp hơn những khám phá và nhận thức của anh, là nơi anh có thể đóng góp tích cực hơn cho đời sống. Lưu Quang Vũ đã nói lên những suy nghĩ của mình trong lời tự bạch, trước khi mất: “Trong quan niệm của tôi, thơ và kịch rất gần nhau. Đó là hai thể loại lớn của văn học, là cuộc sống và thế giới tinh thần của con người được biểu hiện ở dạng tinh chất nhất, mạnh mẽ nhất, tuy ngôn ngữ nghệ thuật của chúng có những điểm khác biệt. Tôi say mê sân khấu từ nhỏ và làm thơ cũng từ nhỏ, nhưng chỉ mãi đến khi hơn ba mươi tuổi, tôi mới dám cầm bút viết vở kịch đầu tiên. Tôi cho rằng nghề viết kịch đòi hỏi người ta phải có sự từng trải khá dày dạn về đời sống và một sự am tường nhất định về sân khấu. Đã có khá nhiều thi sĩ thành đạt từ thuở thiếu niên nhưng hình như khó có ai thành công về viết kịch khi chưa đến 30 tuổi… Động lực xúi giục tôi viết kịch cũng là những động lực khiến tôi làm thơ, đó là khát vọng muốn được bày tỏ, muốn được thể hiện tâm hồn mình và thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến”(1).
Kịch của Lưu Quang Vũ khai thác nhiều đề tài, đi vào khám phá mọi mặt của đời sống xã hội và con người. Có thể phân chia, sắp xếp kịch Lưu Quang Vũ ra làm nhiều loại căn cứ vào cốt truyện của kịch bản. Cha ông ta có câu “có tích mới dịch nên trò”. Có thể hiểu nôm na “tích” chính là cốt truyện, phải có cốt truyện mới tạo dựng thành tác phẩm, sân khấu mới có kịch để diễn. Kịch của Lưu Quang Vũ thường được xây dựng trên một cốt truyện chắc chắn, chủ yếu tập trung vào các vấn đề, các sự kiện quan trọng trong đời sống. Việc khai thác các mô típ dân gian, dựa vào đó để viết kịch bản mang đậm dấu ấn cá nhân và phong cách của mình đã tạo cho kịch Lưu Quang Vũ một chiều sâu đáng kể. Nó tạo cho kịch của anh sự phong phú về đề tài, hấp dẫn ở cốt truyện, lôi cuốn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Trong số kịch bản của Lưu Quang Vũ, khối lượng những vở khai thác trực tiếp từ cốt truyện dân gian không nhiều, nhưng hầu hết những vở kịch đó đều đạt tới hiệu quả nghệ thuật tương đối cao. Tiêu biểu nhất là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Vở kịch này được viết từ năm 1984, nhưng cho đến năm 1987, trong không khí đổi mới dân chủ, mới được ra mắt công chúng. Giới nghiên cứu phê bình cho rằng đây là một trong những vở kịch hay nhất của Lưu Quang Vũ. Ngay khi mới công diễn, vở kịch đã gây chấn động dư luận, tạo ra một không khí tranh luận sôi nổi trên báo chí và trong giới sân khấu. Với sự dàn dựng của đạo diễn Nguyễn Đình Nghi và lớp diễn xuất có nghề của Nhà hát Kịch Việt Nam, vở diễn đã thể hiện sâu sắc tính đa nghĩa của một kịch bản có cấu trúc chặt chẽ, giàu trí tuệ. Một cốt truyện dân gian quen thuộc, chẳng mấy ai tranh luận về ý nghĩa của truyện, vậy mà khi Lưu Quang Vũ đưa lên sân khấu, vở kịch không chỉ dừng lại ở những giá trị ban đầu mà nó còn đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ. Vở kịch không chỉ nói đến sự hoà hợp và ý thức đạo lý về phần hồn và phần xác con người mà còn đề cao cuộc đấu tranh cho sự hoàn thiện nhân cách con người. Qua những lời đối thoại ngắn gọn, súc tích, các nhân vật trong thế giới dân gian xưa cũ trở nên gần gũi, quen thuộc, như đang cùng tham dự với cuộc sống đương đại của chúng ta. Vở kịch không chỉ đề cập đến chuyện của một thời mà còn đề cập đến chuyện của muôn đời. Đó là triết lý nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm người. Những rắc rối đổ vỡ bắt nguồn từ sự sống vay mượn của Trương Ba trong xác anh hàng thịt đã khiến cho chúng ta thấy: Cuộc sống thật là đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được. Sống vay mượn, chắp vá, không có sự hài hoà giữa hồn và xác chỉ đem lại bi kịch cho con người. Cuộc sống chỉ có giá trị khi con người được sống đúng là mình, được sống trong một thể thống nhất. Vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt không chỉ đề cập đến đời sống một cá nhân mà còn đặt ra những vấn đề của xã hội. Thói quan liêu, vô trách nhiệm của Nam Tào Bắc Đẩu đã tước đi mạng sống của người dân vô tội và gây nên bao nhiêu chuyện rắc rối. Sự sửa sai chắp vá của Đế Thích lại là tiền đề bất hạnh cho cuộc đời hồn nọ xác kia không hoàn chỉnh của ông Trương Ba. Mọi sự sửa sai không đúng chỗ đều chứa trong nó nhiều bi kịch hơn là niềm vui. Quyết định vĩnh viễn từ bỏ cuộc sống vay mượn giả tạo của Trương Ba ở phần kết là một sự phản kháng mãnh liệt và đau đớn.
Trích đoạn Hồn Trương Ba da hàng thịt đưa vào dạy trong SGK Ngữ văn lớp 12 là một phần thuộc Cảnh VII – cũng là cảnh cuối cùng của vở kịch, được đặt tên là Thoát ra nghịch cảnh(2). Trọng tâm của lớp kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác Trương Ba. Do đó lời thoại ở đây vừa có thể coi là độc thoại vừa có thể coi là đối thoại. Nó là một lời thoại đặc biệt, vừa chứa đựng mâu thuẫn vừa mang tính hành động, thúc đẩy tình huống kịch phát triển đến mức cao nhất. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư tưởng triết lý của vở kịch. Cuộc đối thoại đó cùng với thái độ và những lời đối thoại của những người ruột thịt thân yêu nhất đã dẫn đến hành động quyết liệt - kiên quyết chối từ một cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia của Trương Ba. Lưu Quang Vũ đã để cho nhân vật của mình chọn một con đường tưởng như tiêu cực nhưng hết sức cần thiết và đúng đắn: Rời bỏ cõi đời này để được đúng là mình, để giữ trong ký ức những người thân kỷ niệm tốt đẹp về mình. Có nhà nghiên cứu cho rằng “cuộc vật lộn giữa “Hồn Trương Ba” và “Da Hàng thịt” thực chất là cuộc giao tranh giữa hai linh hồn trong một thân xác”(3).
Lưu Quang Vũ đã kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian. Anh cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng hơn của linh hồn so với thể xác. Hàng loạt nhân vật phụ được hư cấu đã phát ngôn cho tư tưởng đó của tác giả. Trong khi tất cả những người thân, kể cả người vợ, phủ nhận, xa lánh Trương Ba trong xác anh hàng thịt, thì cô con dâu lại càng thông cảm với ông hơn. Mặc dù cô cũng nhận ra bao nhiêu điều ngang trái xuất hiện nơi con người Trương Ba. Bằng những lời mộc mạc, giản dị, cô đã nói khá đúng, khá cơ bản về linh hồn: “Thầy vẫn dạy chúng con: cái bề ngoài có quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể”; “Đã gọi là hồn làm sao có hình thù, bởi nó không là vuông hay tròn, mà là vui, buồn, mừng, giận, yêu, ghét…”(4). Qua hàng loạt lời thoại của các nhân vật, nhà viết kịch đã thể hiện một cái nhìn biện chứng đối với mối quan hệ Hồn - Xác. Người sống mượn hồn hay xác của kẻ khác thì cũng đều bất ổn như nhau, đều không còn là mình nữa. Một linh hồn dù tốt đẹp khi trú ngụ trong thân xác khác cũng sẽ bị biến dạng, bởi nó bị chi phối theo thói quen và bản năng của thân xác đó, hơn nữa nó luôn bị dằn vặt trong mặc cảm giả dối và ích kỉ. Chưa kể còn hàng loạt những hệ luỵ, rắc rối khác như đã xảy ra ở các màn kịch trước. Cuộc đấu tranh này cũng cảnh báo khả năng lấn át của thể xác, của những nhu cầu tầm thường đối với khát vọng sống cao đẹp.
Cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia là một bi kịch cho Trương Ba và càng đau đớn hơn nữa khi ông ý thức được rằng sự vay mượn này còn đem lại bao đau khổ cho những người thân của mình. Nó còn đáng sợ hơn cả cái chết. Hồn Trương Ba đã nói với cô con dâu: “Thầy đã làm u khổ. Có lẽ cái ngày u chôn xác thầy xuống đất, tưởng thầy đã chết hẳn, u cũng không khổ bằng bây giờ”(5). Có lẽ đây cũng là một nguyên nhân khiến Trương Ba đi đến chấp nhận cái chết, trả lại xác anh hàng thịt. Từ tư tưởng triết lý đúng về quan hệ giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã đi đến một quan niệm đẹp về cách sống: sống chân thật đúng là mình, sống vì mọi người, vì hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người. Trương Ba chết nhưng ông vẫn sống, sống trong tình cảm, trong “cõi nhớ” của mọi người, sống trong Sự sống, không cần phải mượn đến thân xác của người khác. Đó là suy nghĩ vừa biện chứng vừa lạc quan và cao thượng. Ý tưởng sâu sắc đó, sau này lại được Lưu Quang Vũ thể hiện đậm nét trong vở Người trong cõi nhớ - một vở diễn đạt Huy chương vàng Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985. Kịch bản này có một lối kết cấu khá độc đáo. Các nhân vật xuất hiện đồng thời theo các bình diện không gian khác nhau. Những người đang sống và những người đã chết. Đã chết như chỉ là mất đi cái phần thân xác, những tư tưởng, tinh thần, những khát vọng, ước mơ cao đẹp của họ vẫn sống. Sống trong sự nghiệp, trong nỗi nhớ thường ngày của những người đang sống hôm nay. Qua lời của một nhân vật kịch, Lưu Quang Vũ đã bộc lộ quan niệm của anh về sự sống chết: Con người tồn tại ở ba cõi. Đó là thế giới của những người đang sống và cõi lặng im. Cõi thứ ba: Cõi của những người đang sống trong trí nhớ của người khác, những người không bị lãng quên... Và có thể nói quan niệm này đã chi phối hàng loạt các vở kịch khác của anh.
Hồn Trương Ba da hàng thịt là một tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ. Năm 1990, tại Liên hoan Sân khấu Quốc tế lần I tổ chức tại Mátxcơva, lần đầu tiên xuất ngoại, vở diễn đã được đánh giá xuất sắc nhất Liên hoan. Năm 1998 vở Hồn Trương Ba da hàng thịt đã đi lưu diễn tại Mỹ trong chương trình giao lưu sân khấu Việt - Mỹ (V.A.T.E.I) được đánh giá là sự kiện văn hoá lớn. Nhà văn Hồ Anh Thái - người được chứng kiến không khí sôi động của đêm diễn trên đất Mỹ sau này đã tái hiện lại qua bài viết Đêm không ngủ ở Seattle (mượn tên một bộ phim nổi tiếng của điện ảnh Mỹ)(6). Tác giả Phan Ngọc cũng đã có những lời đánh giá cao đối với tác giả vở diễn này: “Theo tôi nghĩ, Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch lớn nhất thế kỷ này của Việt Nam, là một nhà văn hóa... Có một Kịch pháp Lưu Quang Vũ mà cả Đông Nam Á có thể tiếp thu. Vũ là một Prôtê, vị thần trong thần thoại có thể thay hình đổi dạng tùy theo sở thích… Không ai bằng Vũ trong biệt tài nêu lên cái muôn đời trong cái bình thường, biến cổ tích, huyền thoại thành chuyện thời sự, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ để khẳng định cái cao quý”
Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 3
Lưu Quang Vũ là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Trong đó, màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt gửi gắm bài học rất giá trị.
Trương Ba là một người làm vườn chất phác, cần cù, yêu vợ, thương con. Nhưng vì thái độ làm việc tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu mà Trương Ba đang khỏe mạnh lại bị chết oan. Vì quý mến Trương Ba, Đế Thích (một vị tiên nổi tiếng cao cờ) đã hóa phép cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết được một ngày. Khi trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp phải rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, ngay đến gia đình của ông cũng cảm thấy xa lạ... Bản thân ông cũng đau khổ vì phải sống trái với tự nhiên. Đặc biệt là khi xác anh hàng thịt đã làm cho Trương Ba nhiễm một vài thói xấu. Điều đó khiến ông cảm thấy vô cùng, đau khổ và chỉ muốn thoát khỏi xác hàng thịt ngay lập tức. Cuộc đối thoại bắt đầu khi hồn Trương Ba tách ra khỏi xác anh hàng thịt.
Lời thoại của Hồn Trương Ba ở đầu đoạn trích đã bộc lộ rõ tâm trạng vừa chán ngán, vừa sợ hãi cái thân xác mà ông đang vay mượn: “Không! Không! Tôi không muốn sống như này mãi! Tôi chán cái chỗ không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta muốn rời xa mi ngay tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỏ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”. Khi nghe những lời đó, ngay lập tức, xác hàng thịt đã lên tiếng: “Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác”. Lời nói của xác hàng thịt khiến Trương Ba cảm thấy ngạc nhiên: “A, mày cũng biết nói kia à? Vô lí, mày không thể biết nói… ” và phủ nhận sức mạnh của thể xác - “không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u, đui mù”, “không có tư tưởng, không có cảm xúc”.
Xác hàng thịt đưa ra những lí lẽ để chứng minh rằng hồn không thể còn nguyên vẹn, trong sạch, khi phải chung sống và chiều theo những đòi hỏi của xác thịt dung tục. Hồn Trương Ba đã có cảm giác xao xuyến khi đứng bên vợ hàng thịt đến nỗi chân tay run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại; đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi…; đã sử dụng vũ lực mà ông cho là tàn bạo để tát thằng con toé máu mồm, máu mũi… Không chỉ vậy, xác hàng thịt còn tiếp tục khẳng định: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông cứ vin vào cớ linh hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn để rồi bỏ bê thân xác mãi khổ sở nhếch nhác” và “làm xong điều xấu gì, ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết: Cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện”. Để rồi cuối cùng, hồn Trương Ba phải thốt lên đầy bất lực: “Lí lẽ của anh thật ti tiện”, rồi lại phải bần thần nhập vào xác.
Cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác mang ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, ở góc độ Hồn Trương Ba, ta nhận ra khát vọng sống cao thượng, thánh thiện của con người, khi bị những cám dỗ vật chất phàm tục làm cho tha hoá, biến chất. Ở góc độ Xác hàng thịt, ta nhận ra những nếp nghĩ sai lầm của con người: Đó là thói quen đề cao tinh thần mà coi thường vật chất, tự ru ngủ mình trong những giấc mơ cao thượng mà quên đi rằng, cần phải thiết lập mối quan hệ hoà hợp, gắn bó giữa chúng. Như vậy, Hồn và Xác là những ẩn dụ nghệ thuật lớn. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là một tình huống kịch đặc sắc, tô đậm bi kịch “bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”, sự thiếu hài hòa, không thống nhất trên các phương diện: linh hồn và thể xác, vật chất và tinh thần, nội dung và hình thức, bản năng và lý tưởng, cao cả và tầm thường… ở mỗi con người. Kết thúc cuộc đối thoại, Hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt vọng trở về cuộc sống trái với chính mình. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào Xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ bên chõng” diễn tả cô đọng tính chất căng thẳng của xung đột kịch là mâu thuẫn không những không được giải quyết mà còn được đẩy lên đến một mức cao hơn.
Như vậy, mà đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt được Lưu Quang Vũ xây dựng thật độc đáo, gửi gắm bài học ý nghĩa.
Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 4
Lưu Quang Vũ là được mệnh danh là “cây bút vàng” của sân khấu Việt Nam những năm 80 của thế kỷ XX. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được viết năm 1981, và là vở kịch nói đầu tiên mang ra nước ngoài công diễn. Bằng ngòi bút giàu chất triết lý, Lưu Quang Vũ đã thổi vào tích xưa một luồng gió mới. Điều đó đã được thể hiện qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt.
Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: “Không, không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi lắm rồi! Cái thân kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn ta có hình thù riêng nhỏ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”. Rõ ràng hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải c hồn đã nói lên điều đó. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn ghê tởm không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu còn là một người làm vườn chăm chỉ, hết lòng thương yêu vợ con quan tâm tới hàng xóm láng giềng như ngày trước. Ông Trương Ba được mọi người kính trọng đã chết rồi. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Người đọc, người xem càng lúc càng thấy rõ điều đó qua các đối thoại và hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.
Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí, bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn thì hồn vẫn phải thừa nhận. Đó là cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cố nghẹn lại" và "suýt nữa thì...". Đó là cái lần ông tát thằng con ông "tóe máu mồm máu mũi"... Tất cả đều là sự thật. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện.
Qua đó ta thấy được hàm ý mà tác giả muốn gửi gắm: Hình ảnh của Trương Ba và Xác hàng thịt tác giả muốn để lại một ý nghĩa giáo dục sâu sắc không nên hoán đổi thể xác và trú ngụ vào những nơi không phải là của mình. Cuộc hội thoại trên chỉ làm tăng ý nghĩa của tác giả qua bài viết, tâm hồn của mình không thể bị hoán đổi cho người khác. Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là minh, sống trọn vẹn với những gì mình có và theo đuổi nó còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác lẫn tâm hồn. Con người cần phải biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở bi kịch đặc sắc trên nhiều phương diện. Sự kết hợp giữa nội dung hiện thực với yếu tố kì ảo, nghệ thuật tạo tình huống và dẫn dắt xung đột kịch, sắc thái đa dạng của lời thoại khiến cho tâm lí nhân vật được phơi trải, sát với đặc trưng thể loại, ngôn ngữ kịch giàu chất triết lí, giọng điệu tranh biện độc đáo.
Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 5
“Tôi không muốn viết những lời như thế
Tôi không thể viết những lời như thế
…
Tôi xé đi vòng hoa giấy bức màn sương
Những niềm vui dại khờ những nỗi buồn yếu đuối
Cuộc sống còn dở dang
Cần đóng góp không cần ngồi ca ngợi”
Lưu Quang Vũ được bạn đọc và công chúng biết đến với tư cách là một nhà thơ. Nhưng ông gây tiếng vang và được hâm mộ là một nhà viết kịch tài ba. Và với quan điểm sáng tác không phải để ca ngợi mà đơn thuần chỉ là để đóng góp cho cuộc sống còn nhiều dang dở, thông qua những tác phẩm của mình, ông đã truyền tải đến những thông điệp nhân sinh ý nghĩa. Vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” đặc biệt là cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là tiếng nói phê phán những vấn đề tiêu cực của cuộc sống thông qua những câu chuyện trong đời sống hằng ngày và sống động. Thể hiện được góc nhìn của tác giả cũng như là những thông điệp mà ông gửi gắm.
Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã để cho Hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn cấp và tha thiết: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này. ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát.”
Như vậy, hồn đang ở trong trạng thái vô cùng bức bối và đau khổ. Những câu cảm thán và dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải của hồn đã nói lên được điều đó. Hồn bức bối vì không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác ghê tởm ấy, Ghê tởm vì mình không còn là chính mình nữa.Trong cuộc đối thoại với xác hàng thịt, hồn là thế yếu, đuối lý không thể cãi được bởi những điều xác nói dù đúng hay sai, muốn hay không hồn cũng phải thừa nhận.Đó là cái đêm khi hồn đứng cạnh vợ xác thì “tay chân run rẩy”; “hơi thở nóng rực”; “cổ nghẹn lại” và suýt nữa thì…”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn không thích và cho đó là “phàm”. Hồn ghê tởm lúc ông tát thằng con “tóe máu mồm máu mũi”... Tất cả đều là sự thật. Xác còn gợi tả lại một cách chi tiết những sự thật khiến cho hồn càng cảm thấy xấu hổ. Hồn đưa ra lời ngụy biện cho bản thân bằng lí lẽ: “Ta vẫn sống một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn” nhưng lại bị xác cười nhạo và khinh thường.
Trong cuộc đối thoại giữa hồn trương ba và xác hàng thịt, xác thắng thế nên hả hê cười nhạo và liên tục tuôn ra những lời cười nhạo, chê bai với những lời thoại dài với chất giọng lúc thì mỉa mai lúc thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn cùng giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than thở.
Xác khôn ngoan, biết là lỡ lời nên đã biết tìm cách biện minh cho chính mình bằng lý lẽ: “là hoàn cảnh” hay “cũng đáng được quý trọng”, không có tội. Hồn chỉ có phản ứng yếu ớt: “Nhưng… Nhưng…”. Nhận biết Hồn bị dồn vào thế bí, xác đưa ra giao kèo nhằm thỏa hiệp để chung sống bằng giọng nhẹ nhàng, vuốt ve hồn, xác chủ động đưa ra “trò chơi tâm hồn”: “Những lúc một mình lẻ bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh, vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong một điều xấu ông cứ đổ lỗi cho tôi, để ông được thanh thản… miễn là… ông vẫn làm đủ mọi việc thỏa mãn những thèm khát của tôi.” Nghe thấy xác nói xong, hồn nhận thấy được “lí lẽ ti tiện” của xác và thân lên một cách tuyệt vọng và bất lực: “Trời! Đã là một sự chấp nhận số phận trong nỗi đau đớn khôn cùng muốn tìm đường thoát nhưng hoàn toàn vô vọng”.
Qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác, xác nhận rõ ràng đã hiện lên với ưu thế của kẻ nắm đầu chuôi, nắm sự thắng thế, chứng tỏ quyền uy của mình đối với hồn. Linh hồn và thể xác vốn không tách rời được, cả hai phải bổ sung và hoàn thiện cho nhau. Chính vì thế cuộc đấu tranh giữa hồn và xác chính là đấu tranh giữa linh hồn - thể xác, vật chất - tinh thần, nội dung - hình thức, bản năng - lý tưởng, cao cả - tầm thường trong mỗi con người, là giữa sự cao sang giữa phần con và phần người.
Đây cũng chính là lời cảnh cáo, là thông điệp của Lưu Quang Vũ đối với bạn đọc, người xem. Khi con người sống lâu trong môi trường dung tục thì chắc chắn sẽ bị nó chi phối và ảnh hưởng. Khi con người dù có thanh cao đến đâu nhưng bị chi phối bởi những nhu cầu thiết yếu của bản năng thì chắc chắn chẳng thể đổ lỗi cho thể xác. Suy cho cùng cả hai cũng chỉ là một, có sự chi phối lẫn nhau mà thôi.
Không thể tự an ủi, xoa dịu bản thân bằng những vẻ đẹp siêu hình của của tâm hồn, chính vì thế cần phải hoàn thiện bản thân một cách toàn diện. Hoàn thiện bản thân chính là một cách để góp phần xây dựng xã hội văn minh giàu đẹp. Cuộc đấu tranh giữa hồn và xác là cuộc đấu tranh còn dài và dai trong mỗi con người ở trên thế giới này.
Thông qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, Lưu Quang Vũ gửi gắm sự cảnh báo của mình vào đó: khi con người sống trong sự dung tục thì chắc chắn dung tục sẽ ngự trị và thắng thế, dẫn con người đi vào sự tha hóa, lấn át dần những sự thanh cao, trong sạch và tốt đẹp.
Đời sống đâu chỉ gói gọn trong trong những nhu cầu thiết yếu của bản thân, mà còn rất nhiều thứ cần phải được quan tâm và dung hòa. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và hoài bão với dục vọng ham muốn tầm thường, giữa tầm thường và cao cả, giữa phần con và phần người luôn diễn ra hằng ngày, hằng giờ trong mỗi con người.
Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 6
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong những vở kịch nổi tiếng vào những năm 80 của thế kỷ XX. Tác phẩm thể hiện lẽ sống của con người qua việc “ bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, con người khi không thể sống là chính mình thì chính là bi kịch đau đớn nhất của con người. Qua phân tích cuộc đối thoại giữa hồn trương ba và xác hàng thịt chúng ta cũng cảm thấy, tác giả cũng phê phán lối sống giả tạo, sống nhờ và không phải là chính mình.
Trương Ba là một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi, tính tình ngay thẳng, trung thực và rất giỏi đánh cờ. Tuy nhiên, vì sự tắc trách của Nam Tào và Bắc Đẩu mà ông bị chết oan. Do thương cho kẻ hiền lại chết oan cộng với việc giỏi đánh cờ, vị Tiên cờ Đế Thích đã cho phép hồn Trương Ba được nhập vào xác ông hàng thịt vừa chết.Vậy là giờ đây, Trương Ba vẫn sống nhưng lại sống trong thân thể của một người khác. Từ đây xảy ra rất nhiều mâu thuẫn trong tâm hồn và thể xác. Tiên cờ Đế Thích nghĩ rằng đây là cách giải quyết tốt nhất, vẫn để cho một người giỏi và hiền được sống dưới nhân gian, nhưng ngài không ngờ rằng, nó lại chính là bi kịch của Trương Ba không được sống là chính mình.
Đáng buồn thay, trong chính gia đình mình ông lại bị người thân chê trách, xa lánh, coi thường. Ông bị dồn vào sự đau khổ nhất, tự mình nhận thấy sự tha hóa, con trai thì hư hỏng không thể dạy bảo, cường hào thì nhũng nhiễu… Dường như Trương Ba không thể chịu đựng được nữa, ông quyết định vùng lên và đấu tranh với thể xác phàm tục - thể xác của người bán thịt. Ông không thể sống chung với xác của ông hàng thịt, ông tách ra khỏi thân xác để tranh luận.
Cuộc tranh luận diễn ra vô cùng khốc liệt, gay cấn. Một bên là thể xác ông hàng thịt với bụi bặm, cuộc đời phong trần hay nói đúng hơn là phàm phu tục tử. Đã là người bán thịt thì khó ai mà có thể thanh cao, nhẹ nhàng, thảnh thơi chơi cờ được. Họ còn được gọi là đồ thể nếu hành nghề mổ heo. Bởi vậy cho nên thân xác này vô cùng phàm tục nhưng nó cũng có những luận điểm vô cùng sắc bén và không chịu thua hồn Trương Ba. Nó tự vỗ ngực, tự tin nói rằng vai trò, vị trí của xác rất quan trọng. Nhờ có thân xác mà linh hồn mới có nơi trú ngụ, mới cảm nhận được mùi vị cuộc sống, mới có cảm giác lâng lâng hạnh phúc hay được hưởng những món ăn ngon ở đời. Nhìn chung, thân xác chính đóng vai trò quan trọng nhất không thể chối bỏ. Thân xác còn đưa ra các luận điểm vô cùng sắc bén: “Khi ông ở bên nhà tôi… Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng nực, cổ nghẹn lại… Đêm hôm đó, suýt nữa thì…”; “Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì ? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?”. Chứng tỏ, thân xác rất biết rõ vị trí và lợi thế của mình. Nó là nơi giúp cho linh hồn thể hiện các nhu cầu, cảm xúc, hỉ nộ ái ố. Không có thân xác thì linh hồn sao có thể cảm nhận được cuộc đời và sao có thể tồn tại.
Tuy nhiên, Hồn Trương Ba không chịu thua, ông phủ nhận vai trò thể xác mà khẳng định sự thanh cao của tâm hồn. Ông vốn là người có đời sống nhẹ nhàng, thanh thản, chơi cờ giỏi vì vậy sống trong thân thể phàm tục ông vô cùng tức giận và bức bối. Ông cho rằng, thân xác chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì, không có tư tưởng, cảm xúc, hoặc nếu có cũng chỉ là cái xác mà con thú nào cũng có được. Ông rất đề cao tâm hồn: “Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc”. Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, còn hồn “vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”
Cả hai đều có những lý luận mà không ai chịu thua ai khiến cho cuộc tranh luận khó có thể giải quyết trọn vẹn. Tuy nhiên, trước những lí lẽ giảo hoạt, ti tiện của thể xác, cuối cùng linh hồn cũng phải chịu thua. Khi thể xác chế giễu coi thường linh hồn trước những nhu cầu thể xác và đấu tranh có những nhu cầu chính đáng của mình. Nó vuốt ve linh hồn Trương Ba hãy trở về sống hòa hợp. Chứng tỏ nó nhận thấy vai trò của nó rất quan trọng, phải tồn tại thể xác thì mới là một cơ thể thực sự. Về phía hồn Trương Ba, một mặt tức tối trước những lí lẽ của xác hàng thịt, nhưng cũng rất lúng túng bối rối trước những luận điểm của xác hàng thịt và không thể phản bác. Cuối cùng, hồn Trương Ba cũng phải chấp nhận trở lại xác hàng thịt và sống trong nỗi khổ, tuyệt vọng.
Cuộc hội thoại của hồn Trương Ba và xác hàng thịt mang nhiều ý nghĩa ẩn dụ. Một bên đại diện cho khát vọng trong sạch, khát vọng sống thanh cao, còn một bên là sự tầm thường, dung tục. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh vấn đề mang tính triết lí, thể hiện khát khao sống ngay thẳng, trong sạch, là tiếng nói từ tầm hồn, bản chất sâu thẳm của con người. Hồn Trương Ba và da hàng thịt chính là vấn đề trong một con người. Con người đều có hai vấn đề đó là khát vọng sống đẹp và sự dung tục. Qua đây tác giả cũng cảnh báo: Khi con người phải sống trong sự dung tục, nếu không đấu tranh mạnh mẽ sẽ bị sự dung tục chiếm lĩnh và át đi những gì trong sạch và đẹp đẽ nhất bên trong con người. Đồng thời cũng nhấn mạnh, tâm hồn và thể xác là hai thể thống nhất bên ngoài và bên trong. Vì vậy, con người sống chỉ có ý nghĩa khi là chính mình, khi được dung hòa giữa nhu cầu vật chất và tinh thần. Nếu chỉ chạy theo những dục vọng tầm thường thì con người tự hạ thấp mình và sống lối sống dục vọng, bản năng. Vậy thì cuộc sống đâu có thể phát triển được.
Có thể nói, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lên một cốt truyện vô cùng độc đáo, thú vị và mang nhiều ý nghĩa sâu xa. Bên ngoài nhìn vào là cuộc đối thoại giữa hai con người khác nhau nhưng thực chất là cuộc đối thoại giữa linh hồn trong sạch và thể xác dung tục. Qua đây ông cũng gửi gắm tư tưởng, con người cần là một sự thống nhất, đề cao khát vọng sống thanh cao, sống đẹp, con người chỉ có thể là chính mình thì mới không có bi kịch cuộc đời. Dù là thể xác hay tâm hồn cũng đều rất quan trọng, không có phần nào tốt hơn phần nào,bởi vì thiếu đi một trong hai thứ đều khó có thể tồn tại được. Do đó, hãy sống dung hòa, sống chân thành, sống tốt với nhau.
Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 7
Sinh ra trong thời kỳ lịch sử nhiều biến động, động lực xui khiến Lưu Quang Vũ làm thơ, sáng tác kịch chính là “muốn được tham dự và dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến”. Với bản lĩnh của một người cầm bút luôn khao khát được là mình, viết những gì trái tim mình đau nhói, Lưu Quang Vũ không ngần ngại lách sâu ngòi bút vào hiện thực để phản ánh những vấn đề thời sự mang ý nghĩa triết lí và có tầm phổ quát. Qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, tác giả đã ngầm gửi gắm những thông điệp hết sức sâu sắc về mối quan hệ giữa hồn và xác.
Do sự tắc trách của Nam Tào và Bắc Đẩu mà Trương Ba phải chết oan, Đế Thích đã giúp Trương Ba sống lại bằng cách nhập hồn ông vào xác hàng thịt. Thế nhưng, điều đó lại vô tình đưa Trương Ba vào một nghịch cảnh khác khi linh hồn mình phải trú nhờ thân xác người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác hàng thịt: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!”. Lời thoại của hồn là các câu cảm thán ngắn, lời văn dồn dập, hối thúc thể hiện tâm trạng căng thẳng, bức bách đau khổ, dằn vặt đến cùng cực, không thể chịu đựng sự dày vò hơn được nữa. Nghe hồn tự độc thoại, xác lên tiếng ngay: “Ông không tách ra khỏi tôi được đâu”. Trong khi hồn vừa phủ định vừa khinh miệt, cho rằng xác thịt “không có tiếng nói” mà chỉ là “cái vỏ bên ngoài” không có tư tưởng, không có cảm xúc, xác khẳng định lại vị trí và tác động của mình: “Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy”. Sau những lời khinh miệt của xác, hồn lại tiếp tục châm chọc: “Khi ông ở bên nhà tôi... Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại”. Với bằng chứng cụ thể, hồn xấu hổ và kiên quyết phủ định: “là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày”. Nếu như hồn liên tục chối bỏ thì xác lại ngang nhiên thừa nhận Trương Ba cũng đầy thú tính, có những nhu cầu thân xác và hưởng lạc. Từng bước, xác dẫn dắt hòn vào sự thật không thể phủ nhận: hồn ít nhiều đã bị vấy bẩn, tha hóa bởi dục vọng của thân xác. Lúc này, lời thoại của hồn ngập ngừng như bị hụt hơi: “Ta... ta đã bảo mày im đi”. Hồn bị dồn vào chân tường để buộc phải công nhận sự chế ngự của thân xác. Xác nhấn mạnh vào sự thật mà hồn đang muốn trốn chạy, muốn phủ nhận, đẩy tình huống kịch lên đến cao trào. Hồn chỉ còn cố gắng biện minh, chống chế cứu vãn: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Xác còn dừng những lời lẽ sắc lẹm để vạch trần nỗi đau đang tấy mủ trong hồn. Đó là nhờ sức mạnh của xác mà hồn có thể “tát thằng con tóe máu mồm máu mũi”. Biết hồn đã bị dồn vào thế bí, xác ra giao kèo thỏa hiệp để chung sống, dụ hồn vào “trò chơi tâm hồn”. Đến lúc này, hồn tuyệt vọng chỉ còn biết than trời bất lực.
Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ: một bên đại diện cho sự trong sạch, khát vọng sống thanh cao và một bên là sự tầm thường, dung tục. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt đang tồn tại trong một con người, từ đó nói lên khát vọng hướng thiện và tầm quan trọng của việc tự ý thức, chiến thắng bản thân. Không chỉ thế, tác giả còn cảnh báo: khi con người phải sống trong sự dung tục, tầm thường thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, thắng thế và lấn át, tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ bên trong con người.
Qua màn đối thoại giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ cũng gửi gắm những quan niệm mới mẻ về con người: con người là một thể thống nhất giữa hồn và xác, bên ngoài và bên trong, cái cao cả và cái trần thế. Vì thế, cuộc sống con người chỉ có ý nghĩa nếu dung hòa được giữa đời sống vật chất và tinh thần. Nếu đề cao tinh thần mà phủ định những nhu cầu bản năng là phi nhân bản, phản nhân văn. Còn khi chỉ chạy theo những dung vọng tầm thường, con người sẽ tự hạ thấp mình xuống lối sống dung tục, bản năng.
Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 8
Lưu Quang Vũ là một trong những nhà viết kịch tài năng nhất của văn nghệ Việt Nam hiện đại. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt là tác phẩm gây tiếng vang nhất của Lưu Quang Vũ, được tác giả hoàn thành năm 1984, công diễn lần đầu năm 1987. Đoạn trích thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, đặt vấn đề về lẽ sống con người qua nỗi khổ bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, qua mâu thuẫn cực độ giữa hồn và xác, vở kịch chứa đựng những vấn đề triết lí nhân sinh: sống nhờ, sống giả, sống không phải là mình, đó là bi kịch lớn nhất của một con người. Để chuyển tải triết lý nhân sinh cao cả ấy, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lên cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt mang đầy tính ẩn dụ sâu sắc.
Ông Trương Ba là một người làm vườn, khoảng 50 tuổi, sống trung thực, ngay thẳng và giỏi đánh cờ. Tính tình ông nhân hậu, sống chan hòa với mọi người. Chỉ vì do sự cẩu thả và tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu trên thiên đình mà ông Trương Ba phải chết oan. Tiên cờ Đế Thích bực bội và vì tiếc một người có tài chơi cờ nên đã hóa phép cho hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt vừa mới chết một ngày. Hồn Trương Ba từ đó sống trong thân xác của anh hàng thịt. Ai cũng ngỡ đó là cách giải quyết thuận lợi cho Trương Ba, để cho con người hiền lành này tiếp tục sống êm ấm trong gia đình mình. Nhưng trớ trêu thay, chính sự tái sinh trong xác người khác lại là điều bất hạnh của Trương Ba. Trong chính gia đình mình, ông bị người thân chê trách, xa lánh và coi thường. Hồn Trương Ba bị dồn vào sự đau khổ nhất: tự mình ý thức được sự tha hóa của mình, bị cường hào nhũng nhiễu, nhìn thấy con trai hư hỏng mà không dạy dỗ được... Tất cả những điều đó đã khiến ông không thể chịu đựng được nữa, không thể khuất phục trước thể xác, trước những cái xấu xa và tự đánh mất mình. Hồn Trương Ba không thể sống chung với xác anh hàng thịt, tách ra khỏi thân xác để tranh luận.
Cuộc tranh luận giữa một bên là hồn, một bên là xác diễn ra rất dữ dội và không có sự thỏa hiệp. Xác hàng thịt tỏ ra lấn lướt hồn Trương Ba, sỉ nhục hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba thấy đau khổ đến cực độ và thấy không thể chịu đựng được hơn nữa. Xác hàng thịt muốn khẳng định, vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mình: Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, người thân... Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi... Xác tìm cách thỏa hiệp bằng cách nêu cụ thể những nhu cầu tự nhiên mang tính bản năng của con người: “Khi ông ở bên nhà tôi... Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng nực, cổ nghẹn lại... Đêm hôm đó, suýt nữa thì…”; “Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì ? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?”. Còn hồn Trương Ba lại phủ nhận vai trò của thể xác mà khẳng định sự thanh sạch của tâm hồn khác xa với những thủ tục thấp hèn khác: “Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc”. Lí lẽ của đôi bên đưa ra có những điểm đúng đắn khó bề bác bỏ khiến việc thắng bại không thể nào giải quyết được một cách nhanh chóng, đơn giản.
Do phải sống nhờ thể xác của anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của thể xác. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần bị nhiễm những thứ tầm thường của xác anh hàng thịt. Ý thức được điều đó, linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích nên đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ve vãn hồn Trương Ba thỏa hiệp với mình vì theo xác hàng thịt thì chẳng còn cách nào khác, cả hai đã hòa vào nhau làm một rồi. Trước những lí lẽ ti tiện của xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, mắng mỏ xác hèn hạ nhưng đồng thời cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cảnh mà mình đang lâm vào, đành nhập trở lại xác thịt trong tuyệt vọng.
Xây dựng hai nhân vật đặc biệt này, Lưu Quang Vũ đã sử dụng biện pháp đối lập để tô đậm sự khác nhau cơ bản giữa hồn người này và xác người kia. Ông Trương Ba vốn là một người làm vườn chất phác, hiền lành, nho nhã. Hồn của Trương Ba biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức. Hồn là phần chân chính của mỗi con người. Ngược lại, anh hàng thịt với thân xác vạm vỡ, kềnh càng, thô lỗ,... biểu tượng cho bản năng, cho những ham muốn trần tục. Đây thực ra là một ẩn dụ, xác anh hàng thịt ẩn dụ về thể xác con người, còn hồn Trương Ba ẩn dụ về linh hồn của con người. Tác giả đã sáng tạo ra một tình huống ẩn dụ có sức lôi cuốn, gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc: con người không thể sống không là mình, không thể sống giả dối hay vay mượn cuộc sống của người khác. Con người không chỉ sống bằng thể xác và còn phải sống bằng linh hồn, tình cảm... Độ vênh của linh hồn và thể xác sẽ là bi kịch.
Cuộc đối thoại giữa hồn và xác chính là xung đột diễn ra trong bản thân nhân vật, hai phần trong một con người. Giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba có sự đối lập giữa nhiều yếu tố như tốt - xấu, thanh cao - phàm tục, bản năng - lý trí... Qua đây, Lưu Quang Vũ muốn khẳng định: không gì hạnh phúc bằng khi được sống đúng là mình, sống với những gì mình đã có. Như thế cuộc đời sẽ thanh thản, nhẹ nhàng và ý nghĩa biết bao. Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được. Cuộc sống chỉ có giá trị khi con người được trở về đúng bản chất của mình, được sống trong một cơ thể thống nhất.
...........
Tải file tài liệu để xem thêm Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt