Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4 Mẫu sáng kiến kinh nghiệm lớp 4 hay nhất

Mời quý thầy cô giáo cùng Download.vn tham khảo tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4 được chúng tôi đăng tải ngay sau đây.

Sáng kiến kinh nghiệm thực hiện nghiên cứu nhằm khơi dậy khả năng tư duy sáng tạo, tích cực chủ động của học sinh, giúp giáo viên có một số biện pháp để dạy tốt hơn phân môn Lịch sử. Đồng thời trang bị, cung cấp cho học sinh những biện pháp để học môn Lịch sử, để các em hiểu và yêu thích phân môn này; góp phần tạo cho học sinh biết quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào, ghi nhớ công ơn của tổ tiên, với những người có công với Tổ quốc. Mời các bạn cùng tham khảo.

Sáng kiến kinh nghiệm:
Biện pháp nâng cao dạy học môn Lịch sử lớp 4

I. PHẦN MỞ ĐẦU

I. 1. Lí do chọn đề tài

Ngày 1 tháng 2 năm 1942 trên báo Việt Nam độc lập, phát hành tại chiến khu, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã viết bài “Nên học sử ta”. Mở đầu bài báo Bác viết:

Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.

Là một người dân Việt Nam yêu nước, mỗi chúng ta phải yêu và hiểu biết về lịch sử của đất nước, của dân tộc mình. Chính vì vậy mà trong chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục học sinh (HS) tình yêu quê hương đất nước, tự hào về truyền thống của dân tộc. Học Lịch sử để biết được cội nguồn dân tộc, quá trình đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, quá trình lao động sáng tạo của cha ông, để biết quý trọng những gì mình đang có, biết ơn những thế hệ cha ông đã làm ra nó và ngày càng làm giàu thêm truyền thống dân tộc.

Môn Lịch sử ở tiểu học nói chung, môn Lịch sử lớp 4 nói riêng đều nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước (khoảng năm 700 trước công nguyên) đến năm 1858. Dạy Lịch sử là bước đầu hình thành cho học sinh các kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh thái độ và thói quen: ham học hỏi, tìm hiểu để biết các kiến thức về Lịch sử dân tộc Việt Nam và thêm yêu mến tự hào về lịch sử dân tộc. Lịch sử là môn học hỗ trợ đắc lực cho các môn học khác, nó không chỉ có tác dụng quan trọng trong việc phát triển trí tuệ mà còn cả giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ…với những người thật, việc thật, là cơ sở vững chắc cho việc giáo dục niềm tin, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, truyền thống dân tộc, truyền thống yêu nước, giáo dục tinh thần và thái độ lao động đúng đắn, lòng biết ơn với tổ tiên, với những người có công với Tổ quốc. Do vậy việc khơi dậy niềm say mê, tìm tòi, tiếp thu kiến thức của học sinh, tạo sự hứng thú trong giờ học lịch sử là nhiệm vụ và mục đích của người giáo viên (GV) trong sự nghiệp đào tạo thế hệ mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.

Nhưng hiện nay, không ít giáo viên vẫn còn xem nhẹ, không coi trọng môn Lịch sử vì nghĩ rằng đó chỉ là môn phụ. Đa số học sinh còn thờ ơ với môn học này nên kết quả học môn Lịch sử còn thấp so với các môn học khác. Trước thực trạng đó tôi đã rất trăn trở trong việc đổi mới phương pháp dạy học, làm thế nào để các em hứng thú trong học tập và nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử. Đó cũng chính là lí do thúc đẩy tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4” làm đề tài nghiên cứu.

I. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

Mục tiêu, nhiệm vụ mà đề tài này hướng tới chính là khơi dậy khả năng tư duy sáng tạo, tích cực chủ động của học sinh. Giúp GV có một số biện pháp để dạy tốt hơn phân môn Lịch sử đồng thời trang bị, cung cấp cho học sinh những biện pháp để học môn Lịch sử, để các em hiểu và yêu thích phân môn này. Điều đó góp phần tạo cho học sinh biết quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào, ghi nhớ công ơn của tổ tiên, với những người có công với Tổ quốc.

I.3. Đối tượng nghiên cứu

Phương pháp dạy, học môn Lịch sử ở lớp 4.

I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Đề tài này tập trung nghiên cứu về một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4.

I.5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:

+ Phương pháp quan sát

+ Phương pháp trải nghiệm

+ Phương pháp nghiên cứu, thu thập tài liệu

+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm

+ Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm

II. PHẦN NỘI DUNG

II.1. Cơ sở lí luận

Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học đã được thực hiện ở tất cả các trường tiểu học trong cả nước. Đây là con đường giúp HS tiếp cận với tri thức mới, nhằm thay đổi cách dạy học truyền thống “thầy giảng trò nghe, thầy đọc trò chép”. Theo quan điểm dạy học mới, dạy học là quá trình HS tự khám phá, tự tìm ra chân lí. Phương pháp dạy môn Lịch sử cũng không nằm ngoài định hướng đó. Đặc trưng nổi bật của nhận thức Lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Lịch sử là những việc đã diễn ra, là hiện thực trong quá khứ, nó tồn tại khách quan không thể phán đoán, suy luận. Vì vậy nhiệm vụ tất yếu của dạy Lịch sử là phải tái hiện lại bức tranh Lịch sử, cho HS tiếp cận những thông tin từ sử liệu, tiếp xúc những chứng cứ, những dấu vết của quá khứ. Tạo ra ở HS những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các nhân vật, sự kiện Lịch sử. Đây là môn học không chỉ có tác dụng quan trọng trong việc phát triển trí tuệ mà còn giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho thế hệ trẻ. Nghị quyết Hội nghị TƯ 5 (khóa VIII) chỉ rõ: “Để nền giáo dục phát triển bền vững, xây dựng lớp thế hệ trẻ có đủ đức, tài thì bên cạnh các môn khoa học tự nhiên, cần coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lý và văn hóa Việt Nam". Nhưng trong thực tế, một bộ phận GV và cả học sinh vẫn còn những nhận thức chưa đúng về môn Lịch sử, xem nhẹ vai trò của Lịch sử, thờ ơ với môn học này dẫn đến chất lượng dạy và học không cao. Như vậy muốn đào tạo con người phát triển toàn diện thì vấn đề cấp thiết là thay đổi cách dạy, cách học môn Lịch sử.

II. 2. Thực trạng

a) Thuận lợi, khó khăn

Thuận lợi

Được sự quan tâm của các cấp và nhà trường, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho GV và HS về cơ sở vật chất. Đồ dùng dạy học được trang bị tương đối đầy đủ. Bên cạnh đó sự giúp đỡ của đồng nghiệp nhất là những GV trong tổ 4 đã giúp tôi hoàn thành đề tài này.

Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin như hiện nay GV có điều kiện để tham khảo các tài liệu, sử liệu trên internet, sách báo có liên quan, tự học để nâng cao tay nghề và góp phần làm cho bài giảng thêm phong phú, sinh động hơn .

Chương trình Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới Việt Nam gọi tắt là VNEN được phân chia theo từng giai đoạn lịch sử. Các đề mục trong sách giáo khoa đã được các nhà biên soạn sắp xếp thành một hệ thống và rất khoa học, kênh hình, kênh chữ rõ ràng, màu sắc đẹp. Phần nội dung cần thiết dễ nhớ, dễ thuộc.

Giáo viên được thực hiện mô hình dạy học mới VNEN nên đã quen dần với việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học của học sinh.

Học sinh lớp 4 đã có ý thức hơn trong học tập, ham học hỏi, thích tìm tòi, khám phá về Lịch sử.

Khó khăn

Về nội dung chương trình Lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mới VNEN cũng giống như chương trình trước đây nhưng cách chia nội dung bài theo sách VNEN thì mỗi bài học là được tích hợp nhiều nội dung, gồm một chuỗi sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của một giai đoạn lịch sử nhất định. Thời lượng dành cho mỗi bài học thường là 2 đến 3 tiết. Nội dung bài khá dài và dàn trải.

Thiết bị dạy học phục vụ cho việc dạy học môn Lịch sử còn nhiều hạn chế, thiếu tranh ảnh, mô hình, sa bàn,…

Một số giáo viên và cả học sinh còn quan niệm Lịch sử không phải là môn học chính mà chỉ chú trọng vào hai môn Toán và Tiếng Việt. Chính vì vậy nên không đầu tư vào chất lương dạy và học cho môn Lịch sử. Dẫn đến tình trạng GV cắt xén thời gian, nội dung chương trình còn HS học Lịch sử chỉ để đối phó. Ở lớp 4, môn Lịch sử là môn học hoàn toàn mới mẻ đối với chính các em, việc dạy môn Lịch sử không hấp dẫn cho học sinh khiến các em chỉ học thuộc lòng, học vẹt để trả bài, chứ đầu thì trống rỗng.

Phần lớn học sinh của lớp tôi là dân tộc thiểu số (9 em chiếm 45%) nên sự hiểu biết của các em về lịch sử còn nhiều hạn chế. Khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, tưởng tượng, khái quát hóa còn yếu, khả năng ghi nhớ của các em còn chậm mà các nhân vật, mốc lịch sử, sự kiện lịch sử lại nhiều nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách máy móc (nhanh nhớ nhưng lại mau quên). Kĩ năng đọc, kể, tường thuật của các em chưa lưu loát, do đó ảnh hưởng đến thời gian và tiến trình chung của môn học. Tinh thần hợp tác học chưa cao, nhiều em chưa tự tin khi hợp tác trong nhóm, một số em còn học thụ động.

b) Thành công, hạn chế

* Thành công

Sau khi đã vận dụng những kinh nghiệm đã tích lũy được, tôi nhận thấy:

Cả GV và HS đã thay đổi cách nghĩ về môn Lịch sử từ đó cũng thay đổi cách dạy, cách học theo hướng tích cực. Giờ học Lịch sử không còn nhàm chán, nặng nề, khô khan như trước, học sinh ham thích học vì giáo viên biết cách tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp. Môn học này không còn là môn học “khó nuốt” nữa.

GV đã biết vận dụng các phương pháp dạy học linh hoạt, phù hợp với từng loại bài. Biết cách sử dụng các đồ dùng dạy học môn Lịch sử nhuần nhuyễn, biết cách khai thác đồ dùng dạy học một cách hiệu quả.

Giáo viên không nhất thiết phải rập khuôn và gói gọn kiến thức trong sách giáo khoa mà giáo viên phải biết chủ động gợi mở, hướng dẫn cho học sinh nắm bắt được những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa và mở rộng những kiến thức mới.

* Hạn chế:

Một số giáo viên áp dụng các biện pháp này vào dạy Lịch sử còn khá máy móc, chủ yếu chỉ hướng học sinh đến việc hoàn thành mục tiêu bài học, môn học chứ chưa chú ý đến việc học sinh có hứng thú học tập và hình thành cho HS những kĩ năng khi học Lịch sử.

c) Mặt mạnh, mặt yếu

* Mặt mạnh

Khi vận dụng đề tài này vào thực tế, tôi thấy HS biết cách làm việc khai thác tư liệu lịch sử, bước đầu các em đã có một số kĩ năng như quan sát và phân tích tranh ảnh lịch sử; kĩ năng đọc, phân tích bản đồ, sơ đồ, lược đồ; kĩ năng so sánh, đánh giá, giải thích; kĩ năng sắp xếp hệ thống hóa các sự kiện, hiện tượng lịch sử …Từ đó giúp các em mạnh dạn nêu thắc mắc, đặt câu hỏi và cùng tìm câu trả lời, trình bày kết quả học tập bằng cách diễn đạt của chính mình. Học sinh ham thích học môn Lịch sử hơn, thích tìm tòi, khám phá về Lịch sử. Môn học này đã hình thành ở các em lòng yêu mến, tự hào về lịch sử dân tộc, khơi gợi ở các em tính tò mò thích tìm hiểu về quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, quá trình lao động sáng tạo của cha ông trong suốt chiều dài lịch sử từ buổi đầu dựng nước (khoảng năm 700 TCN) đến năm 1858. Từ đó các em thấy được trách nhiệm của người học sinh đối với quê hương, đất nước thân yêu.

* Mặt yếu

Để giờ học Lịch sử không khô khan, nhàm chán thì cả thầy và trò đều phải nỗ lực, hợp tác với nhau một cách hiệu quả. Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài, nghiên cứu kĩ nội dung khi lên lớp, chuẩn bị đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết dạy. Chính vì vậy mà làm mất nhiều thời gian, công sức do đó một số giáo viên ngại dạy môn Lịch sử.

d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động

* Nguyên nhân dẫn đến thành công của đề tài:

Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp quản lí giáo dục, sự giúp đỡ nhiệt tình của chị em trong tổ 4. Là một giáo viên khi được phân công dạy một lớp có nhiều HS dân tộc thiểu số, chất lượng đầu vào thấp nên tôi luôn trăn trở, tìm tòi biện pháp dạy học để mang lại hiệu quả. Bên cạnh đó tôi nhận được sự đồng lòng hưởng ứng cách dạy học mới từ phía phụ huynh, sự phối hợp giáo dục của 3 lực lượng nhà trường-gia đình-xã hội giúp cho việc dạy học mang lại kết quả khả quan hơn.

* Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém:

Năm học 2013 – 2014 là năm đầu tiên chúng tôi sử dụng Sách Hướng dẫn học môn Lịch sử, đây là sách thử nghiệm nên vẫn còn một số bất cập, các bài học nội dung không tách bạch rõ ràng theo từng tiết như sách giáo khoa của chương trình hiện hành mà được tích hợp nhiều nội dung và mỗi bài thường học từ 2 đến 3 tiết do vậy nội dung bài khá dài và dàn trải. Một số GV chưa thật sự coi trọng môn học này vì cho rằng đây là môn phụ, vẫn còn cứng nhắc, chưa mạnh dạn sáng tạo trong việc dạy học nên nhiều khi áp dụng máy móc, rập khuôn theo sách. Đồng thời khi tổ chức dạy học giáo viên ngại phải chuẩn bị nhiều thứ như bảng phụ, phiếu học tập, tranh ảnh, bản đồ,… gây tốn kém thời gian, kinh phí. Đồ dùng như tranh ảnh, bản đồ, hay các giáo cụ phục vụ cho việc dạy học còn ít, giáo viên phải tự làm đồ dùng dạy học nhưng số lượng cũng như chất lượng đồ dùng tự làm còn hạn chế. Thiết bị dạy học còn chưa phong phú. Tài liệu về bồi dưỡng nghiệp vụ, rèn kĩ năng dạy học môn Lịch sử vẫn chưa đồng bộ, nội dung còn chung chung.

e) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra

Trong những năm gần đây, tình hình học sinh tiếp thu, ghi nhận những kiến thức lịch sử của dân tộc, của đất nước quá hạn chế. Qua các thông tin đại chúng đưa tin, đặc biệt là kết quả các lần thi của học sinh trung học phổ thông quá thấp làm cho dư luận không khỏi băn khoăn suy nghĩ và đặt câu hỏi tại sao kiến thức về môn lịch sử của các em lại kém như vậy. Đây cũng chính là nỗi đau của người thầy, người cô. Phải chăng lịch sử bây giờ dài hơn ngày xưa nên học sinh không tiếp thu được. Kết quả học môn lịch sử ở đơn vị tôi đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn một số em nắm bắt, ghi nhớ kiến thức lịch sử còn thụ động, nhanh quên, các em chưa biết cách quan sát sơ đồ, lược đồ, mô phỏng, tường thuật lại các sự kiện, thời gian lịch sử. Năm học 2013 – 2014 là năm học tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 4D, chất lượng đầu vào của HS thấp và đa số các em là người dân tộc, bố mẹ thường đi làm ăn xa không quan tâm nhiều đến việc học hành của con cái, nhiều em gia đình rất khó khăn. Chính vì vậy mà tôi luôn trăn trở để tìm biện pháp giúp HS yêu thích học Lịch sử hơn, chất lượng môn học này khả quan hơn.

Năm học này cũng là năm thứ hai trường tiểu học Lý Tự Trọng thực hiện mô hình dạy học kiểu mới gọi tắt là VNEN. Với mô hình dạy học này cả giáo viên và học sinh phải chuyển đổi từ lối truyền thụ một chiều của giáo viên (thầy giảng trò nghe, thầy đọc trò chép) sang dạy học hợp tác theo nhóm (học sinh chủ động học tập, tự khám phá chiếm lĩnh kiến thức, GV là người hướng dẫn, gợi mở để HS nắm được kiến thức). Việc học theo nhóm này hình thành cho các em các kĩ năng như kĩ năng hợp tác trong nhóm, trong lớp; kĩ năng giao tiếp, tương tác giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn.

Sách Hướng dẫn học môn Lịch sử Địa lí vừa là sách dùng cho học sinh vừa là sách dùng cho giáo viên, đồng thời cũng là sách bài tập. Sự kết hợp ba trong một này vừa tiện lợi nhưng cũng gây khó khăn cho giáo viên vì không có sách thiết kế bài giảng hay sách giáo viên để làm cơ sở cho việc dạy học.

Học sinh chỉ được sử dụng sách Hướng dẫn học trên lớp mà không được mang về nhà nên khó khăn trong việc ôn lại bài cũ và chuẩn bị nội dung cho bài mới. Phụ huynh cũng gặp khó khăn trong việc hướng dẫn con em học tập ở nhà. Muốn có sách để học ở nhà phụ huynh phải phô tô sách cho con em mình học vừa tốn kém mà chất lượng của sách phô tô thì không cao.

Học sinh phải đọc hiểu tốt mới tự học theo các câu lệnh trong sách nhưng trong thực tế một số em đọc hiểu còn chậm vì vậy ảnh hưởng đến tiến độ bài học. Mặt khác các kĩ năng như giao tiếp, hợp tác, lãnh đạo, giải quyết vấn đề của một số em còn rất hạn chế nhất là các em người dân tộc thiểu số các em rất rụt rè trong giao tiếp. Vả lại môn học Lịch sử chỉ được học 1 tiết/tuần mà đối với học sinh tiểu học các em nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên cho nên nhiều nội dung các em không nhớ hết được dẫn đến việc hổng kiến thức.h phải i giáo viên lo ngại việc dạy học theo n

II.3. Giải pháp, biện pháp

a) Mục tiêu của giải pháp, biện pháp

Để nâng cao hiệu quả dạy và học môn Lịch sử lớp 4, tôi đã tiến hành một số biện pháp nhằm thay đổi cách dạy, cách học Lịch sử, hình thành cho HS một số kĩ năng khi học Lịch sử. Đồng thời giúp giáo viên giảng dạy môn học này một cách hiệu quả hơn.

b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp

b.1. Thay đổi nhận thức của người dạy, người học

* Đối với giáo viên

Tôi luôn xác định rằng muốn các em học tốt môn Lịch sử thì giáo viên phải là người yêu thích Lịch sử, phải tự trang bị cho mình kho tàng kiến thức về lịch sử. Việc bồi đắp kho tàng này không bao giờ là đủ mà phải được thực hiện liên tục, thường xuyên suốt cuộc đời. Bởi vậy tôi luôn tìm đọc những cuốn sách về lịch sử, những câu chuyện, bộ phim lịch sử, xem các tài liệu trên mạng internet để hiểu hơn về lịch sử dân tộc cũng như thế giới. Giáo viên có yêu lịch sử thì mới có thể truyền được tình yêu đó đến học sinh của mình bởi vì ở cấp tiểu học các em xem giáo viên như thần tượng, như một chuẩn mực để các em hướng đến, các em bắt chước, làm theo như giáo viên. Mặc dù trường tôi đang thực hiện mô hình dạy học mới VNEN trong đó học sinh chủ động học tập tuy nhiên giáo viên vẫn đóng vai trò quan trọng. Lời giảng của giáo viên rõ ràng, truyền cảm sẽ gây được sự chú ý của học sinh.

Bản thân tôi luôn nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, tài liệu, nắm vững các kiến thức cơ bản cần truyền đạt, đảm bảo hệ thống kiến thức chính xác, có hệ thống để từ đó có phương pháp giảng dạy thích hợp.

GV phải hiểu và tái hiện được bức tranh lịch sử một cách sinh động, chân thực bởi dạy lịch sử phải đảm bảo tính chính xác, nói đúng sự thật, điều đó có tác dụng giáo dục niềm tin và gây hứng thú học tập, từ đó sẽ phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Vì vậy tôi không ngừng nghiên cứu, sưu tầm tài liệu để phục vụ cho việc giảng dạy, khi dạy phải có dẫn chứng minh họa cụ thể vì “Nói có sách, mách có chứng” thì mới thể hiện tính chân thực của lịch sử và như thế mới thuyết phục được học sinh.

Chẳng hạn khi dạy bài “ Nước Đại Việt thời Lý” (Lịch sử lớp 4, tập 1, trang 45), người giáo viên phải giúp học sinh hiểu được hoàn cảnh lịch sử của sự kiện Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập ra triều đại nhà Lý. Cụ thể là khi dạy đến bài này giáo viên cần phải nghiên cứu để dẫn dắt HS đi từ các vấn đề lịch sử: Năm 1005 vua Lê Đại Hành mất, Lê Long Đĩnh lên ngôi. Nhà vua tính tình bạo ngược nên lòng dân oán hận. Không lâu sau Lê Long Đĩnh mất. Trước tình hình đó triều đình cử một vị quan là Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Ông là người thông minh, văn võ song toàn, đức độ cảm hóa được lòng người.

Qua những bài học Lịch sử, tôi luôn khơi dậy những tình cảm của học sinh đối với nhân vật, sự kiện lịch sử. Qua đó, giáo dục tinh thần đoàn kết, truyền thống uống nước nhớ nguồn. Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn dựa vào trình độ của học sinh lớp mình để lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp nhất đồng thời tôi sử dụng linh hoạt, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học đàm thoại, vấn đáp hay thảo luận nhóm, trao đổi, theo hình thức cá nhân, nhóm 2 hay nhóm 4….để giải quyết những vấn đề được đặt ra. Việc linh hoạt tổ chức đối tượng học sinh hoạt động theo nhóm cũng cần được quan tâm, tránh áp đặt cố định số lượng hoặc trình độ học sinh hay để học sinh quá đông trong một nhóm. Hệ thống câu hỏi cũng được tôi lựa chọn kĩ lưỡng, tôi thường xây dựng những câu hỏi ngắn, gọn, dễ hiểu, vừa sức, đi từ dễ đến khó và cần nhất là nổi bật trọng tâm bài học.

Ví dụ: Nếu giải quyết chung một đề tài khó, cần có sự đan xen về trình độ học sinh trong cùng một nhóm để các em hỗ trợ cho nhau. Nhưng cũng có lúc, tôi tạo điều kiện cho các em học sinh còn chậm, còn nhiều hạn chế cùng làm việc với nhau theo nhóm và dành riêng cho các em một đề tài dễ hơn . Đây cũng là lúc tôi phát huy vai trò của mình “ Dạy học phân hóa đối tượng học sinh.”

Trong quá trình giảng dạy, tôi hướng dẫn học sinh khai thác nội dung bài học qua từng hoạt động học tập. Phân chia thời gian hợp lý. Có hình thức khen thưởng, khuyến khích học sinh tích cực phát biểu ý kiến, tham gia xây dựng bài, tránh tối đa hình thức xử phạt, la mắng.

* Về phía học sinh

Phải thay đổi nhận thức về môn Lịch sử bởi đây chính là môn học giúp HS tìm về cội nguồn dân tộc. Đây cũng là môn học bổ trợ kiến thức cho các môn học khác.

HS phải có sự chuẩn bị bài ở nhà trước khi đến lớp. Tích cực sưu tầm tài liệu, sử liệu có liên quan đến bài học để việc học tập được tốt hơn. Đọc thêm sách báo, sách lịch sử, truyện kể lịch sử, xem phim lịch sử để bổ sung, tích lũy kiến thức về môn học. Khi vào lớp chú ý nghe giảng, nghe theo sự hướng dẫn của giáo viên, biết hợp tác với các bạn trong nhóm, trong lớp để tập trung và hoàn thành tốt nội dung bài học.

b.2. Sử dụng kênh hình hiệu quả

Cũng giống như một số môn học khác, trong SGK Lịch sử 4, kênh chữ giữ vai trò chủ yếu trong việc cung cấp kiến thức. Tuy nhiên, kênh hình vẫn có vai trò quan trọng; nó không chỉ minh hoạ cho kênh chữ, mà còn là nguồn cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho HS. Trong giờ dạy Lịch sử, có những giáo viên không hiểu kênh hình nên không khai thác được kênh hình với đúng vai trò của nó mà chỉ đưa ra như một sự minh hoạ đơn thuần. Kênh hình trong sách giáo khoa của phân môn Lịch sử hiện nay nhiều, phong phú, màu sắc và trình bày đẹp, ngoài tính minh hoạ mỗi bức tranh, bức ảnh còn hàm chứa những thông tin lịch sử với mức độ khác nhau phục vụ việc dạy và học đạt hiệu quả. Tôi phân loại kênh hình trong sách giáo khoa phân môn Lịch sử lớp 4 như sau:

- Loại thứ nhất là bản đồ, lược đồ: Chủ yếu được bố trí ở loại bài về các cuộc khởi nghĩa, các chiến dịch, các trận đánh nhằm giúp học sinh hiểu được vị trí của cuộc khởi nghĩa, chiến dịch, trận đánh… cách bố trí lực lượng hai bên và diễn biến của cuộc khởi nghĩa, chiến dịch, trận đánh… Khi khai thác lược đồ giáo viên phải giúp học sinh hiểu được ý nghĩa sâu xa của cách chọn vị trí trận địa, việc bố phòng và hướng tấn công của hai bên qua đó làm nổi bật âm mưu của địch, sự mưu lược và nghệ thuật quân sự tài tình của những vị tướng chỉ huy trận đánh cũng như tinh thần chiến đấu dũng cảm của ta từ đó giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc cho các em.

Ví dụ ở bài: “Nước Đại Việt thời Lý (từ năm 1009 đến năm 1226) khi hướng dẫn trên lược đồ người giáo viên không dừng lại ở mức độ chỉ cho học sinh thấy các hướng tấn công của địch và cách chọn vị trí tiêu diệt địch của ta một cách đơn thuần mà còn phải giúp các em phân tích để thấy âm mưu thâm độc của địch và bằng nghệ thuật quân sự tài tình Lý Thường Kiệt đã đập tan âm mưu của chúng. Thông qua lược đồ HS tường thuật lại diễn biến của trận đánh trên sông Như Nguyệt.

.............

Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tết

Chia sẻ bởi: 👨 Trịnh Thị Thanh
Mời bạn đánh giá!
  • Lượt tải: 1.928
  • Lượt xem: 15.280
  • Dung lượng: 1,1 MB
Sắp xếp theo