Phân tích tác phẩm Tấm lòng người mẹ (Dàn ý + 2 Mẫu) Tấm lòng người mẹ của Vích-to Huy-gô
Văn mẫu lớp 11: Phân tích tác phẩm Tấm lòng người mẹ của Vích-to Huy-gô bao gồm 2 mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em học sinh có thể vận dụng, điều chỉnh và viết một cách ấn tượng hơn.
TOP 2 bài văn phân tích Tấm lòng người mẹ mà Download.vn đăng tải dưới đây sẽ giúp các em tự luyện tập và rèn luyện phong cách viết riêng cho mình. Hi vọng qua bài văn mẫu này sẽ giúp các em học sinh học tập ngày càng tốt hơn và tự tin với khả năng viết bài nghị luận về một vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học.
Phân tích tác phẩm Tấm lòng người mẹ
Dàn ý phân tích Tấm lòng người mẹ
I. Mở bài
Dẫn dắt và giới thiệu về đoạn trích.
II. Thân bài
1. Khái quát:
a. Tác giả
- V. Huy - go (1802 - 1885) là một nhà văn, chính trị gia thi sĩ, nhà viết kịch nổi tiếng của Pháp.
- Ông viết nhiều thể loại như tiểu thuyết, thơ, kịch,..
- Các tác phẩm của ông chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn học Pháp.
- Về phong cách nghệ thuật, các tác phẩm của V. Huygo là sự kết hợp giữa mỹ học lãng mạn và cảm quan hiện thực sâu sắc.
b. Tác phẩm
- Tiểu thuyết “Những người khốn khổ” là một trong những tác phẩm thành công nhất của V.Huy - go. Tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng và chuyển thể nhiều lần.
- Đoạn trích “Tấm lòng người mẹ” thuộc phần thứ nhất trong năm phần của tác phẩm.
2. Phân tích:
a. Hoàn cảnh của Phăng - tin:
- Phăng - tin bị đuổi khỏi xưởng vào một ngày cuối đông do mọi người đã biết việc làm “đáng xấu hổ” (có một đứa con gái) của cô.
- Thời tiết mùa đông khắc nghiệt, không có hơi ấm, không có canh trưa, buổi sáng và buổi chiều liền nhau.
- Bọn chủ nợ giày vò Phăng - tin.
b. Vợ chồng Tê-nác-đi-ê lừa Phăng - tin lần thứ nhất, khiến cô bán đi mái tóc:
- Vợ chồng Tê - nác - đi - ê viết thư thôi thúc Phăng - tin vì thấy tiền gửi thất thường. Chúng lừa cô rằng trời rất rét nên Cô - dét cần chiếc váy len.
- Phăng - tin, vốn rất yêu quý bộ tóc của mình, đã trải qua những đấu tranh, day dứt trong nội tâm:
+ Cô cầm bức thư trên tay cả chiều đến mức nhàu nát.
+ Buổi chiều, Phăng - tin quyết định bán tóc để lấy mười Phờ - răng.
+ Phăng - tin mua một chiếc váy lên và gửi đi mà không biết vợ chồng Tê - nác - đi - ê chỉ cần tiền nên đã lấy chiếc váy cho con gái của chúng mặc.
+ Phăng - tin tự an ủi bản thân rằng nhờ có chiếc váy mà Cô - dét đã ấm áp.
+ Mất đi mái tóc, Phăng - tin đau khổ, không còn chải chuốt được. Chị thù ghét tất cả và đau đớn vì bị đẩy vào đường cùng, trở nên sa đọa.
- Hình arh Cô - dét vẫn là niềm an ủi đối với Phăng - tin.
c. Vợ chồng Tê - nác - đi - ê lừa Phăng - tin lần thứ hai, ép cô gửi bốn mươi phờ - răng. Phăng - tin bán đi hai chiếc răng cửa.
- Vợ chồng Tê - nác - đi - ê lừa Phăng - tin rằng Cô - dét bị sốt ban, nếu trong tám ngày cô không gửi bốn mươi phờ - răng thì Cô - dét sẽ chết.
- Phăng - tin cố gắng tìm mọi cách để cứu Cô - dét:
+ Chị cười rộ lên như điên vì cuộc sống đã quá khốn khó, không biết lấy đâu ra số tiền lớn ấy.
+ Chị đọc lại bức thư, đi ra phố, vừa đi vừa cười khanh khách. Phăng - tin đã hóa điên vì quá khổ sở.
+ Khi nhận được lời đề nghị của người nhổ răng dạo, ban đầu Phăng - tin rất tức giận. Nhưng cuối cùng, Phăng - tin đã bán đi hai chiếc răng để có được hai đồng vàng gửi cho vợ chồng Tê - nác - đi - ê.
d. Phăng - tin trở nên kiệt quệ. Vợ chồng Tê - nác - đi - ê lừa Phăng - tin lần thứ ba, đẩy cô vào con đường trở thành gái điếm.
- Căn phòng Phăng - tin ở vô cùng tồi tàn.
- Phăng - tin không biết xấu hổ là gì, cũng không trang điểm làm dáng.
- Vợ chồng Tê - nác - đi ê lại gửi thư cho cô, bắt cô gửi một trăm phờ - răng.
- Phăng - tin đi làm gái điếm, bán cả thân xác và danh dự để cứu con.
3. Kết bài
a. Nội dung:
Đoạn trích đã thể hiện tình yêu thương con vô bờ cùng số phận đau khổ của nhân vật Phăng - tin. Phăng - tin sẵn sàng hi sinh cả thân thể và danh dự của mình để cứu con. Đoạn trích cũng cho thấy sự thương cảm của tác giả dành cho số phận khốn khổ của những người dân lao động trong xã hội Pháp thời bấy giờ và phê phán những kẻ lừa đảo, gian ác, xã hội mục ruỗng cướp đi hạnh phúc con người.
Phân tích bài Tấm lòng người mẹ - Mẫu 1
Victor Hugo đã một lần tuyên bố: “Cuộc đời là một đóa hoa, còn tình yêu là mật ngọt.” Và không gì có thể thể hiện mật ngọt của tình yêu hơn tình mẫu tử, một loại tình yêu ấm áp và phi thường trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Đoạn trích “Tấm lòng người mẹ” lấy từ tiểu thuyết kinh điển “Những người khốn khổ” thực sự là một câu chuyện cảm động về tình mẫu tử, một sức mạnh tuyệt vời có thể thấy trong cuộc sống hàng ngày.
Phăng-tin, một người phụ nữ xinh đẹp và có tình yêu sâu sắc đối với con gái. Tuy cô trải qua nhiều khó khăn sau khi bị đuổi việc làm, tất cả vì cô có một đứa con ngoài giá thú. Tuy nhiên, cô không bao giờ từ bỏ hoặc ruồng rẫy cô bé đó. Thay vào đó, cô để lại đứa con gái yêu quý của mình, Cô-dét, cho gia đình Tê-nác-đi-ê nuôi dưỡng với hy vọng ngây thơ rằng đứa bé sẽ có cuộc sống hạnh phúc. Lần đầu tiên, Phăng-tin đã bán mái tóc của mình để có tiền mua một chiếc váy len cho Cô-dét. Việc này là một biểu tượng cho vẻ đẹp của cô và sự hy sinh của cô để bảo vệ con gái. Khi Cô – dét bị nhiễm bệnh và cần một loại thuốc đắt tiền để chữa trị, Phăng-tin không ngần ngại bán hai chiếc răng cửa của mình cho người bán răng giả và gửi bốn mươi phờ-răng cho nhà Tê-nác-đi-ê. Việc này khiến cô thấy tội lỗi và tồi tệ về việc mất đi hai chiếc răng, nhưng tình yêu mẫu tử đối với con gái đã thúc đẩy cô vượt qua mọi thách thức.
Tổn thương về thân thể và bị áp bức bởi những người chủ nợ, Phăng – tin suy tàn tinh thần. Và những tên Tê-nác-đi-ê đã trở nên càng độc ác hơn, ép cô gửi thêm một trăm phờ-răng. Cuối cùng, Phăng – tin đã chấp nhận hy sinh cả danh dự và nhân phẩm, trở thành gái điếm để kiếm tiền gửi đi. Đây là một cuộc đấu tranh không khoan nhượng của một người mẹ, người đã hi sinh tất cả để bảo vệ con gái mình.
Trong đoạn trích này, ta được chứng kiến sức mạnh vĩ đại của tình mẫu tử, một trạng thái tình cảm không biên giới. Đối với Phăng – tin, tình yêu thương cho con là nguồn động viên mạnh mẽ, giúp cô vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Ngay cả trong những thời khắc tăm tối nhất, hình ảnh con luôn chiếu sáng trong tâm hồn cô, là nguồn động viên và hi vọng duy nhất. Đặc biệt, tình thương của Phăng – tin đã đạt đến mức cao điểm khi cô bắt đầu phản kháng xã hội tàn ác và tham lam. Cô không còn có ai hiểu và đồng cảm với mình, chỉ có tình thương dành cho con cái là động力 duy nhất đưa cô vượt qua mọi khó khăn. Từ những nỗ lực và hy sinh của Phăng-tin, Cô-dét đã được sinh ra và sống.
Tình mẫu tử không chỉ thể hiện trong cuộc sống hàng ngày mà còn là một trải nghiệm thiêng liêng, tự nhiên của con người. Nó được thể hiện qua việc công sinh, nuôi dưỡng và chăm sóc con cái. Mẹ, trong trường hợp này, đã đối mặt với nỗi đau và khó khăn của việc sinh con trong đau đớn, đồng thời tận tâm nuôi dưỡng, che chở cho con cái một cuộc sống hạnh phúc và an lành. Ngoài ra, mẹ là người thầy dạy cho con những giá trị đạo đức quý bá và kiến thức về thế giới tự nhiên và xã hội. Tình mẫu tử đồng thời còn là sự hy sinh không đòi hỏi đền đáp. Trong khi đó, sự hiếu thảo, thấu hiểu và cảm thông của con cái đối với mẹ cũng là một biểu hiện của tình mẫu tử.
Tình mẫu tử mang lại ý nghĩa quan trọng cho cuộc sống con người. Nó là nguồn động viên mạnh mẽ giúp ta vượt qua những thử thách trong cuộc sống. Tình mẫu tử giúp ta có sức mạnh để đối mặt với những khó khăn trên con đường phấn đấu. Nó giúp ta cảm nhận niềm hạnh phúc mỗi ngày và giúp ta hiểu rõ giá trị cuộc sống. Sự hiểu biết và tôn trọng tình mẹ là một phần quan trọng của con người. Sự hiểu biết này cũng giúp chúng ta thấu hiểu nguồn gốc, đỉnh cao của tình mẫu tử. Thiếu tình mẫu tử, con người sẽ mất đi sự đoàn kết và lạc hậu, không thể phát triển một cách toàn diện. Hiện nay, trong xã hội vẫn còn tồn tại những trường hợp mất đi sự thiêng liêng của tình mẫu tử, mà điều này thật đáng buồn.
Cũng giống như Trái Đất có duy nhất một Mặt Trời, cuộc đời của chúng ta chỉ có một lần. Vì vậy, hãy trân trọng yêu thương mẹ cha trong khi họ vẫn còn ở bên. Rồi sau này, khi chúng ta trở thành cha mẹ, chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa tuyệt vời của tình mẫu tử:
“Con dù lớn lên, vẫn luôn là con của mẹ
Suốt đời này, tâm hồn mẹ sẽ luôn bên con.”
Phân tích Tấm lòng người mẹ - Mẫu 2
“Trên đời này, chỉ có một thứ mà ta phải cúi đầu thán phục đó là tài năng và chỉ có một thứ mà ta phải quỳ gối tôn trọng đó là lòng tốt”. Đó là câu nói nổi tiếng của nhà văn V. Huy - go. Tư tưởng nhân đạo sâu sắc ấy được ông thể hiện rất rõ trong các sáng tác của mình, tiêu biểu là đoạn trích “Tấm lòng người mẹ” thuộc tiểu thuyết kinh điển “Những người khốn khổ”.
Victor Huygo (1802 - 1885) là một nhà văn, chính trị gia thi sĩ, nhà viết kịch nổi tiếng của Pháp. Ông sáng tác cả thơ, kịch, truyện và ở thể loại nào cũng gặt hái được thành công. Sinh ra và lớn lên vào thời kì nước Pháp có nhiều biến động, khi mà giai cấp cầm quyền với sự trị vì của nhà vua gây nên đau khổ cho đời sống nhân dân, Huy-go đã chọn đứng về phía bênh vực quyền sống chính đáng của con người. Các tác phẩm của ông là sự kết hợp giữa mỹ học lãng mạn và cảm quan hiện thực sâu sắc. Đoạn trích “Tấm lòng người mẹ” nằm ở phần thứ nhất của “Những người khốn khổ”, cho thấy tình yêu cao cả của Phăng - tin dành cho con và số phận đáng thương của cô.
Bên cạnh nhân vật chính Giăng - van - giăng, Phăng - tin cũng là nhân vật lấy đi rất nhiều nước mắt của độc giả. Mở đầu đoạn trích là tình cảnh tội nghiệp của cô. Vào một ngày cuối đông, Phăng - tin bị đuổi khỏi xưởng. Người ta đuổi cô vì phát hiện ra “bí mật” rằng cô không có chồng mà lại có một đứa con. Ông Thị trưởng cho cô một chút tiền vàng nhân danh lòng nhân hậu rồi đuổi cô đi để giữ sự “chính trực”. Thời gian lúc ấy là mùa đông, không có ánh sáng, không có canh trưa, gợi lên sự lạnh lẽo và u uất, báo hiệu số phận buồn thảm của Phăng - tin. Hoàn cảnh của Phăng - tin lúc ấy thật đáng thương. Không có tiền, thời gian làm việc ngắn, Phăng tin bị chủ nợ thúc ép, giày vò. Đúng lúc ấy, vợ chồng Tê - nác - đi - ê gửi thư đến, muốn cô gửi cho chúng mười phờ - răng. Hành động cầm bức thư trong tay cả ngày đến nhàu nát cho thấy sự căng thẳng, giằng xé trong nội tâm của cô. Phăng - tin rất thương con nhưng cô chưa biết làm sao có thể nhanh chóng có được số tiền ấy. Trong phần trước của tác phẩm, Phăng - tin từng rất vui vẻ khi có việc làm. Cô sắm sửa chút ít đồ đạc, chăm sóc ngoại hình của bản thân và nuôi hi vọng một ngày nào đó sẽ đón Cô - dét bé bỏng về bên mình. Thế nhưng hoàn cảnh xã hội và sự nguội lạnh của lòng người đã khiến Phăng - tin rơi vào tình cảnh trớ trêu. Vì thương con, chị quyết định bán đi mái tóc óng ả của mình. Vợ chồng Tê - nác - đi - ê nhận được chiếc váy len thì vô cùng tức giận vì thứ chúng muốn là tiền. Nhà văn đã gọi đôi nhân vật này là những kẻ “hòa lẫn một vài thói hư của lớp dưới với hầu hết những tật xấu của tầng lớp trung gian. Vì thế chúng không có nhiệt tình hào hiệp của người thợ mà cũng vẫn thiếu cái tính ngăn nắp lương thiện của anh tư sản thị dân”. Phăng - tin, với tình yêu thương con mãnh liệt vẫn tự an ủi chính mình rằng mái tóc chị đã bán đi đã giúp Cô - dét ấm áp hơn trong mùa đông. Nhà văn đã rất tài tình khi sử dụng ngôi kể thứ ba rất khách quan, miêu tả được những biến động tâm lí sâu kín của nhân vật. Mất đi mái tóc tức là mất đi một niềm vui trong cuộc sống. Phăng - tin không thể chải chuốt, chị chán ghét tất cả. Đau đớn và bất lực, Phăng - tin căm hận những điều và những người đã gây nên đau khổ cho chị. Tâm lí của Phăng - tin cũng giống với nhân vật chính Giăng - van - giăng: “Anh tự hỏi xã hội sao lại có quyền bắt con người phải chịu đựng, một mặt là cái thói không phòng xa phi lý, một mặt là cái lối đề phòng quá tàn nhẫn của nó? Sao lại có quyền ép một người xấu số vào cái thế hiểm, giữa một cái thiếu và một cái thừa, thiếu việc làm và thừa hình phạt?”. Nỗi khổ khiến con người ta mất phương hướng và dần tha hóa. Phăng - tin ném mình cho một tên đàn ông vô lại, để mặc hắn đánh đập và hành hạ. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng lạ kì, càng đau đớn thì hình ảnh Cô - dét lại càng an ủi tâm hồn chị. Phăng - tin vẫn giữ niềm tin sẽ đón Cô - dét về. Chi tiết này cho thấy tình yêu con vô bờ, đức hi sinh cao cả và khát khao sống hạnh phúc của Phăng - tin.
Cuộc đời Phăng - tin đã vô cùng khốn khó nhưng vợ chồng Tê - nác - đi - ê vẫn không buông tha chị. Quả thực, “Tội lỗi cũng như luật hấp dẫn, chi phối mọi người”, thấy Phăng - tin thương con và cả tin, chúng tiếp tục lừa chị. Chúng viết thư nói rằng Cô - dét bị sốt ban và cần tiền để chạy chữa, những bốn mươi phờ - răng. Nội dung bức thư gây cho ta nhiều trăn trở. Sự gia tăng về số tiền và bệnh tình của Cô - dét cho thấy sự tha hóa ngày càng nhiều của vợ chồng Tê - nác - đi - ê. Phăng - tin vô cùng đau đớn. Dù chị rất yêu Cô - dét nhưng cũng không tránh khỏi sự bối rối, lo sợ vì số tiền quá lớn. Một bên là tính mạng của con gái, một bên là hiện thực tàn nhẫn, Phăng - tin như hóa điên. Hành động phá lên cười và nói với bà láng giềng “Nghĩa là hai đồng vàng! Đào đâu ra?” cho thấy chị đã quá khổ sở đến mức gần như mất trí trong giây phút đó. Phăng - tin không biết cầu cứu ai vì cả xã hội luôn áp bức những con người như chị, chỉ có thể cất lên tiếng cười chua chát.
Khi nhận được lời đề nghị bán răng nửa đùa nửa thật của người nhổ răng dạo, Phăng - tin cảm thấy điều này thật lố bịch và đáng tức giận. Điều đáng trân trọng ở Phăng tin chính là chị luôn có ý thức về vẻ đẹp của bản thân, biết yêu lấy chính mình. Sở thích chải chuốt và ngắm mình trong gương cũng là một việc làm giúp chị khuây khỏa. Tác giả đã thành công xây dựng một tình huống éo le, đặt nhân vật vào sự thử thách để nổi bật phẩm chất của Phăng - tin. Phăng - tin tức giận nhưng vẫn bị lời đề nghị của người nhổ răng dạo làm xao nhãng. Những hai đồng vàng kia mà? Đó chính là số tiền mà con chim Sơn Ca nhỏ của chị cần! Phăng - tin bịt tai chạy đi để mong thoát khỏi lời nói ám ảnh ấy. Khi về nhà, chị vẫn bực tức kể lại chuyện với người láng giềng. Đoạn đối thoại giữa Phăng - tin và người đàn bà ấy thể hiện rõ sự đấu tranh nội tâm gay gắt của Phăng - tin. Chị trầm ngâm suy nghĩ, làm việc rồi lại giở bức thư của nhà Tê - nác - đi - ê ra đọc. Bằng tất cả tình yêu con của một người mẹ, chị hỏi người láng giềng tất tần tật về căn bệnh mà vợ chồng Tê - nác - đi - ê nói đến. Khi biết có rất nhiều người đã chết vì căn bệnh ấy, chị đọc bức thư lại lần cuối cùng và ra đi về phía quán Ti - lắc. Người mẹ ấy đã quyết định hi sinh thân thể mình một lần nữa vì con.
Cảnh tượng sau đó thật ghê rợn. Phăng - tin xuất hiện như một bóng ma. Mặt chị lạnh lẽo, tái nhợt, chiếc mũ chụp thì rơi xuống đầu gối. Nụ cười chị rớm máu. Đã cả đêm Phăng - tin không ngủ, nỗi đau cả thể xác và tinh thần đang tra tấn chị. Nếu số tiền mà nhà Tê - nác - đi - ê tăng lên để thể hiện sự tha hóa của chúng thì sự hi sinh theo mức độ tăng dần của Phăng - tin lại càng tô đậm đức hi sinh, tình yêu con của người mẹ khốn khó. Mới có một đêm, Phăng - tin như già đi mười tuổi. Ấy vậy mà chị vẫn nói với bà láng giềng: “Con tôi sẽ không chết vì cái bệnh ác nghiệt ấy vì có thuốc rồi. Tôi rất hài lòng”. Kể cả có trở nên biến dạng, xấu xí, người mẹ ấy vẫn quyết tâm làm tất cả để đứa con được sống. Phăng - tin chết đi một chút, nhưng với chị, đó lại là cơ hội cho Cô - dét. Nhưng thật trớ trêu, chị không biết rằng tất cả chỉ là một vở kịch của nhà Tê - nác - đi - ê. Ở nơi xa, con gái của chị được người ta trông thấy với hình ảnh “không lớn hơn con chim, run lẩy bẩy, lúc nào cũng sợ sệt, giật mình, trong nhà và cả trong làng sáng tinh sương chưa có ai dậy, đã thấy nó ở ngoài đường hay ra đồng rồi”.
Quá đau khổ, Phăng - tin như hóa điên. Chính xã hội bất lương đã đẩy chị đến con đường tha hóa. Không gian nơi Phăng - tin ở không chỉ cho thấy tình cảnh ngày một khốn khó mà còn thể hiện cả sự héo tàn, mất hết sức sống của tâm hồn người đàn bà. Cái gác xép sát mái nhà chật chội, chỉ có mảnh giẻ rách gọi là chăn, một cái đệm vứt xuống sàn. Cây hồng con đã chết khô. Xã hội này đã lấy đi của chị tất cả, Phăng - tin dường như không còn gì để mất nên chị cũng mặc kệ vẻ ngoài của bản thân, cứ thế mặc quần áo bẩn đi ra ngoài phố. Dẫu người đời chỉ trỏ, dòm ngó, chị cũng chẳng màng. Chính sự dòm ngó vô lương tâm đó đã khiến chị mất việc, mất đi nguồn sống, là nguồn cơn đẩy chị vào cảnh biến dạng về thân thể. Tất cả hành động của Phăng - tin ở phần này cho thấy sự chống đối lại xã hội trong đau đớn và bất lực, muốn phản kháng nhưng không thể. Chị cười nhạo chính mình và xã hội. Căn bệnh, chủ nợ vẫn hành hạ Phăng - tin suốt. Chị quả thực không khác gì “một con vật bị người ta săn bắt và đương hóa nên hung tợn vì bị đẩy đến đường cùng”. Người phụ nữ ấy từng biết hi vọng, yêu thương, biết làm đẹp. Giờ đây, cuộc đời chị hủy hoại. Con người bé nhỏ bị đùn đẩy, vò nát trong tay những kẻ bất lương, tham lam, độc ác.
Đoạn trích kết thúc với một cái kết ám ảnh và ghê sợ. Lòng tham vô độ của nhà Tê - nác - đi - ê được đẩy lên đến tận cùng và sự thống khổ, tình yêu con của Phăng - tin cũng được thể hiện mãnh liệt nhất. Vợ chồng Tê - nác - đi - ê “như loài tôm tép chỉ muốn giật lùi và đi sâu mãi vào trong bóng tối chứ không muốn tiến lên chút nào”, lại viết thư đòi thêm một trăm phờ - răng ngay lập tức, nếu không chúng sẽ tống Cô - dét ra ngoài. Phăng - tin quyết định đi làm gái điếm để có được số tiền ấy, bán đi cả danh dự của mình. Người mẹ có thể chịu đựng mọi sự tra tấn, kể cả sự tra tấn dã man nhất - mất đi danh dự con người để cho đứa con có hi vọng sống.
Đoạn trích đã thể hiện tình yêu thương con vô bờ cùng số phận đau khổ của nhân vật Phăng - tin. Phăng - tin sẵn sàng hi sinh cả thân thể và danh dự của mình để cứu con. Đoạn trích cũng cho thấy sự thương cảm của tác giả dành cho số phận khốn khổ của những người dân lao động trong xã hội Pháp thời bấy giờ và phê phán những kẻ lừa đảo, gian ác, xã hội mục ruỗng cướp đi hạnh phúc con người. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật xây dựng cốt truyện đặc sắc, tình huống truyện éo le để làm nổi bật phẩm chất của nhân vật. Ngoài ra, ngôi kể thứ ba khách quan, chân thực cùng nghệ thuật xây dựng và miêu tả tâm lí nhân vật tài tình, cách xây dựng không gian, thời gian gắn với sự thay đổi của nhân vật đã góp phần làm nên thành công cho đoạn trích.
Qua đoạn trích, ta thấy được tài năng xuất chúng và tấm lòng nhân đạo của V. Huy - go. Nói như Dostoevsky thì “Khi pháp luật và phong hóa còn đày đọa con người, còn dựng nên những địa ngục giữa xã hội văn minh và đem một thứ định mệnh nhân tạo chồng thêm lên thiên mệnh; khi ba vấn đề lớn của thời đại là sự sa đọa của đàn ông vì bán sức lao động, sự trụy lạc của đàn bà vì đói khát, sự cằn cỗi của trẻ nhỏ vì tối tăm, chưa được giải quyết; khi ở một số nơi đời sống còn ngạt thở; nói khác đi, và trên quan điểm rộng hơn, khi trên mặt đất, dốt nát và đói khổ còn tồn tại, thì những cuốn sách như loài này còn có thể có ích.”