Văn mẫu lớp 11: Bàn luận về sức hấp dẫn của một bộ phim, vở kịch hoặc một bài hát mà em yêu thích Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật
Bàn luận về sức hấp dẫn của một bộ phim, vở kịch hoặc một bài hát mà em yêu thích bao gồm gợi ý cách viết kèm theo 3 mẫu khác nhau cực hay. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều tài liệu học tập hữu ích, chọn lọc ý chính, nắm chắc kiến thức cơ bản thông qua cách diễn giải ý tứ một cách chặt chẽ hơn.
TOP 3 mẫu bàn về sức hấp dẫn của một bộ phim, vở kịch hoặc một bài hát mà em yêu thích cực chất dưới đây được viết rất hay dễ hiểu gồm cả mẫu ngắn gọn và đầy đủ. Các em học sinh thoải mái lựa chọn để tham khảo nhé. Bên cạnh đó các bạn xem thêm bài văn mẫu suy nghĩ về một bức tranh có giá trị.
Bàn luận về sức hấp dẫn của một bộ phim, vở kịch hoặc một bài hát mà em yêu thích
Đề bài: Bàn luận về sức hấp dẫn của một bộ phim, vở kịch hoặc một bài hát mà em yêu thích.
Dàn ý bàn luận về sức hấp dẫn của bộ phim, vở kịch hoặc bài hát
1. Mở bài:
- Giới thiệu về bộ phim, vở kịch hoặc một bài hát mà em yêu thích.
2. Thân bài:
* Với bài bàn luận về bộ phim, vở kịch:
- Giới thiệu sơ qua về đạo diễn, điểm đặc biệt của bộ phim.
- Nhận xét về bối cảnh, cốt truyện, kịch bản, nhân vật,...
- Nhận xét về về diễn viên, âm thanh, ánh sáng, góc quay, âm nhạc, vũ đạo,...
- Nếu giá trị của tác phẩm.
* Với bài bàn luận về một bài hát:
- Giới thiệu về nhạc sĩ sáng tác bài hát ấy.
- Nêu nội dung, ý nghĩ của bài hát.
- Nhận xét về giai điệu, tiết tấu, ca từ,...
- Nhận xét một số màn biểu diễn bài hát ấy
3. Kết bài:
- Khái quát lại về sức hấp dẫn của bộ phim, vở kịch hoặc bài hát đó.
Bàn về sức hấp dẫn của một bài hát
Bài hát "Điều Anh Biết" của ca sĩ Chi Dân là một trong những bài hát của Việt Nam mà tôi yêu thích và có sức lan tỏa mạnh mẽ. Bài hát này không chỉ có giai điệu đẹp mà còn mang trong mình thông điệp sâu sắc về tình yêu và lòng trung thành.
Một trong những yếu tố khiến tôi yêu thích bài hát này là lời bài hát chất chứa và ý nghĩa. Lời bài hát nói về một người đàn ông biết rõ tình yêu của mình và sẵn sàng hy sinh và chờ đợi cho người mình yêu. Bài hát khơi gợi sự cảm thông và cảm xúc về tình yêu chân thành và lòng trung thành.
Giai điệu của "Điều Anh Biết" cũng rất cuốn hút và dễ ghi nhớ. Những âm nhạc và tiết tấu phối hợp hài hòa kết hợp với giọng ca ấm áp và truyền cảm của Chi Dân tạo nên một sự hòa quyện tuyệt vời. Bài hát này có khả năng truyền đạt cảm xúc và khiến người nghe bị cuốn hút từ những nốt nhạc đầu tiên.
Ngoài ra, "Điều Anh Biết" còn có sức lan tỏa mạnh mẽ và ảnh hưởng tích cực đến người nghe. Bài hát đã trở thành một trong những ca khúc nổi tiếng và được yêu thích rộng rãi trong cộng đồng âm nhạc Việt Nam. Từ lời bài hát đến giai điệu, bài hát này mang lại cho người nghe một cảm giác yên bình và đồng thời khơi gợi những suy nghĩ tích cực về tình yêu và lòng trung thành.
Tổng kết lại, bài hát "Điều Anh Biết" của Chi Dân là một tác phẩm âm nhạc tuyệt vời với lời bài hát ý nghĩa, giai điệu cuốn hút và sức lan tỏa mạnh mẽ. Bài hát này không chỉ là một niềm vui âm nhạc mà còn là nguồn cảm hứng và sự suy ngẫm về tình yêu và lòng trung thành trong âm nhạc Việt Nam.
Bàn về sức hấp dẫn của một vở kịch
Nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ tuy đã ra đi nhưng những "gia tài" ông để lại cho nền văn học nước nhà vẫn còn nguyên giá trị cho đến tận ngày hôm nay. Những tác phẩm kịch ông viết mang ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc. "Lời thề thứ 9" là một trong những tác phẩm hay và nổi bật nhất của tác giả, đã được dựng lại nhiều lần trong những năm qua.
Trong 10 lời thề của Quân đội nhân dân Việt Nam, lời thề thứ 9 chính là: "Kính trọng dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân", "Không lấy của dân, không quấy nhiễu dân, không dọa nạt dân". Dựa trên lời thề này, Lưu Quang Vũ đã sáng tác ra vở kịch "Lời thề thứ 9". Tác phẩm kể về Đôn và Xuyên - hai anh bộ đội trong một lần làm nhiệm vụ đã gặp một ông chú, nghi là buôn lậu nên tịch thu túi xách của ông chú này. Sau đó, khi trở về, hai người mới biết đó là bố của Hiến - bạn thân hai người. Bố Hiến chính là Chủ tịch Tỉnh đương nhiệm, Cựu chỉ huy trưởng của Trung đoàn. Trong lúc này, ở quê nhà, bố Xuyên bị Chủ tịch Xã ức hiếp, bắt giam trong hầm tối. Mẹ Xuyên đi kêu oan khắp nơi không được. Ba người Đôn, Xuyên, Hiến quyết định dùng số tiền tịch thu được từ bố Hiến để về quê giúp đỡ gia đình Xuyên. Mọi chuyện vỡ lở, trung đoàn quyết định truy nã ba anh lính về chịu kỉ luật. Vở kịch kết thúc khi Trung đoàn trưởng, bố Hiến, mẹ Xuyên và mọi người gọi họ trở về, tất cả mọi người nhận ra lỗi lầm của mình.
Các diễn viên trong đoàn kịch đã thể hiện cực kì tròn vai. Đôn có tính cách tếu táo, hay ca cải lương nhưng trong chiến đấu cực kì anh dũng, dám đánh giáp la cà với địch và lưu lại vết sẹo trên mặt. Xuyên hiền lành, yêu thương gia đình nhưng cũng rất dũng cảm, đã lấy thân mình che chắn để cứu Hiến trong một trận đánh. Hiến là cậu con trai của Chủ tịch Tỉnh, Cựu chỉ huy trưởng của Trung đoàn với tính cách cương trực, thẳng thắn, luôn chiến đấu hết mình. Điểm sáng của vở kịch nằm ở diễn xuất của hai diễn viên NSƯT Đức Khuê trong vai bố Hiến - Chủ tịch Tỉnh và NSƯT Lê Khanh trong vai mẹ Xuyên. NSƯT Đức Khuê rất ra dáng một vị thủ trưởng cũ, hơi cứng nhắc, bảo thủ, hay phê bình mọi người và không nhận ra lỗi sai của mình. Cô Lê Khanh cũng toát lên mình dáng vẻ của một bà mẹ bộ đội lam lũ, kiên cường, giàu lòng yêu thương và nhân hậu. Từ cách hóa trang, dáng đi, điệu bộ cử chỉ, nhất là trong những lời thoại đầy triết lí đều cho người xem thấy rõ điều đó.
Xung đột kịch là sự xung đột giữa bộ đội và người dân, giữa nhân dân và chính quyền. Khi những người lính đang chiến đấu bảo vệ đất nước thì chính gia đình họ lại bị ức hiếp. Đau đớn, mất niềm tin, họ phải thốt lên rằng: "Thế mà bảo nhân dân ta anh hùng, đất nước ta tươi đẹp", "Không, đất nước không đẹp, nhân dân cũng không anh hùng. Nhân dân nhát... Nhân dân thế này, quê hương đất nước thế này, chúng con không tha thiết giữ đâu. Đấy, ai có giỏi thì lên biên giới mà đánh giặc.". Những suy nghĩ đó đã được mẹ Xuyên gỡ rối trong phân cảnh cuối: "Khó mấy rồi cũng xong, rồi mấy rồi cũng sẽ gỡ ra, nhưng hễ động một tí chúng mày về thì bỏ nước cho ai?". Ngoài ra, nhân vật này cũng có những câu nói giàu tính hiện thực. Khi bị Chánh văn phòng Tỉnh hỏi "Nếu lên Trung ương không kiện được, bà định lên giời à", người mẹ này đã trả lời "Vâng, nếu như lên được. Nhưng khốn nỗi, không có giời. Xưa thì còn đổ lỗi cho giời được, nhưng nay biết rằng chỉ toàn con người thôi.". Câu nói vang lên vừa đanh thép, vừa thể hiện sự chua chát, đắng cay về hiện thực đáng buồn của xã hội. Từ xung đột ấy, tác giả muốn đặt ra câu hỏi cho mọi người, nhất là cho những người nắm quyền: Vậy ai phải là người chịu trách nhiệm cho câu chuyện này, khi mà quân và dân không còn chung một lòng, chính quyền thờ ơ, vô cảm với nỗi oan của nhân dân?
Rất nhiều vấn đề đã được đặt ra trong "Lời thề thứ 9". Những điều đó đều mang tính thời đại mà đến ngày nay, chúng ta vẫn còn phải suy ngẫm rất nhiều. Chính bởi vì nội dung của vở kịch đã quá đặc sắc nên phần âm nhạc, phối cảnh sân khấu cũng không cần cầu kì. Những chiếc thùng gỗ được phủ vải xanh quân đội cùng hàng cây chằng chịt cho người đọc biết đấy là khung cảnh chiến trường. Hay bàn làm việc của ông Chủ tịch Xã có chiếc điện thoại mới, chiếc đồng hồ xịn to oành nhưng chẳng có mấy công văn giấy tờ đã cho ta biết đây là người như thế nào. Hay như khi mới gặp mẹ Xuyên, Chủ tịch Tỉnh vẫn ung dung ngồi trên ghế, chỉ đến khi nghe lời bà bộc bạch, ông mới đứng dậy, thể hiện thái độ tôn trọng.
Tuy đã có tuổi đời đến 35 năm nhưng những vấn đề mà vở kịch nói đến vẫn còn giữ nguyên giá trị. Tính thời đại tác phẩm mang lại cũng chính là minh chứng cho tài năng nghệ thuật độc đáo của Lưu Quang Vũ.
Bàn luận về sức hấp dẫn của một bộ phim
So sánh về tuổi đời, điện ảnh thuộc lớp những ngành nghệ thuật còn non trẻ ở Việt Nam. Thế nhưng, không vì thế mà điện ảnh ít được đón nhận. Bộ phim “Mùi cỏ cháy” chính là một minh chứng cho sức hấp dẫn của phim điện ảnh chất lượng tại Việt Nam.
“Mùi cỏ cháy” được công chiếu vào năm 2012. Sức hấp dẫn của bộ phim được thể hiện trên nhiều khía cạnh, đầu tiên là về mặt đề tài. Đề tài chiến tranh không phải là đề tài mới mẻ, xa lạ với các sáng tạo nghệ thuật. Có biết bao những tác phẩm văn chương, âm nhạc, nhiếp ảnh về đề tài này đã trở nên nổi tiếng và đi vào đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Thế nhưng, người dân nước ta khi ấy vẫn còn ít tiếp xúc với điện ảnh. Việc khai thác một đề tài kinh điển bằng chất liệu mới đã thu hút được sự chú ý và khơi gợi sự trân trọng ở công chúng. Không chỉ vậy, chính tên tuổi biên kịch cùng nguyên tác, đơn vị sản xuất cũng là yếu tố góp phần gây tiếng vang cho tác phẩm. Kịch bản của bộ phim được viết bởi nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm – một nhà thơ và cũng là một người chiến sĩ từng từ giã mái trường để lên đường chống Mỹ. Xúc động hơn, tác phẩm được dựa trên cuốn nhật kí bất hủ “Mãi mãi tuổi hai mươi” của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Đơn vị sản xuất là Hãng phim truyện Việt Nam. Chỉ từng ấy yếu tố thôi, “Mùi cỏ cháy” đã hứa hẹn là tác phẩm lấy đi nhiều nước mắt của khán giả khi tái hiện những năm kháng chiến hào hùng của đất nước cùng vẻ đẹp con người Việt Nam giữa lửa đạn chiến tranh.
Nếu những yếu tố trên thu hút công chúng đến với phòng vé thì chính nội dung hấp dẫn, chân thực và cảm động đã khiến “Mùi cỏ cháy” có sức sống lâu bền. Từ Hà Nội cổ kính rêu phong đến Quảng Trị kiên cường máu lửa, tất cả đều hiện lên vô cùng sống động. Nhân vật chính của tác phẩm là những chàng sinh viên đang độ tuổi đôi mươi, quyết tâm gác lại việc học để lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Bốn chàng trai Hoàng, Thành, Thăng, Long mang trong mình bầu nhiệt huyết tuổi trẻ, tâm hồn ngây thơ trong sáng, sự tinh nghịch lạc quan, khát khao hạnh phúc và trên hết và tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm, tinh thần quyết tâm xả thân vì độc lập tự do của dân tộc. Những sự kiện, địa danh trong phim như 81 ngày đêm khốc liệt tại Thành cổ, dòng sông Thạch Hãn, những đợt ném bom của Mĩ,… đều là những điều có thật. Hơn hết, “Mùi cỏ cháy” không dừng lại ở mức tái hiện khô cứng hiện thực lịch sử. Tác phẩm không khoác lên chiến tranh bộ chiến bào lấp lánh, oai hùng mà khắc họa tận cùng những mất mát, đau thương của con người. Ta tìm thấy trong tác phẩm nỗi buồn khi rời xa gia đình, sự đau xót khi chứng kiến đồng đội lần lượt hi sinh của những người lính kiên cường hơn sắt thép. Ngày ra đi, bốn chàng trai cùng nhau chụp một tấm ảnh hẹn ngày chiến thắng trở về. Đến khi đất nước đã không còn bóng giặc thì Thành, Thăng, Long cũng đã nằm lại nơi chiến trường, chỉ còn lại mình Hoàng. Mỗi nụ cười, mỗi ánh mắt của các nhân vật trong bộ phim đều để lại trong tâm hồn người xem biết bao day dứt, khắc khoải. Tác phẩm thực sự là khúc bi hùng ca về con người và đất nước Việt Nam.
Không chỉ thành công về mặt nội dung ý nghĩa truyền tải đến người xem, “Mùi cỏ cháy” còn là tác phẩm thành công về nghệ thuật làm phim. Tiến trình của phim đi theo mạch hồi tưởng của nhân vật Hoàng – khi ấy đã là một cựu chiến binh già tạo nên sự chân thực và gây xúc động mạnh cho người xem. Bên cạnh đó, đây còn là tác phẩm kết hợp hài hòa giữa chất thơ và chất hiện thực. Trong phim xuất hiện nhiều hình ảnh ẩn dụ như dòng máu chảy trên tượng cô gái khi Thành, Thăng, Long hy sinh hay tấm ruy đô Long mang từ nhà,...Bối cảnh của phim cũng được chau chuốt kĩ lưỡng để tái hiện đầy đủ vẻ đẹp làng quê Việt Nam với giếng nước, đốc ga. Các cảnh chiến trận được đoàn làm phim chuẩn bị vô cùng kì công với khoảng thời gian lên tới bốn tháng.
Với những nét hấp dẫn trên, “Mùi cỏ cháy” đã xứng đáng “Bông sen Bạc” tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 cùng 4 giải “Cánh diều vàng” tại Lễ trao giải Cánh Diều Vàng 2011. Đến nay, câu chuyện về bốn chàng thanh niên Hoàng, Thành, Thăng, Long vẫn được yêu mến và lấy đi nước mắt của khán giả. Lời nhận xét của đạo diễn Hữu Mười có lẽ đã đủ tổng kết giá trị của bộ phim: “"Vinh danh Mùi cỏ cháy, là vinh danh quá khứ (…) Chúng ta không bao giờ được phép quên quá khứ, nếu quên quá khứ sẽ không có tương lai".