Dẫn chứng về lí tưởng sống của thanh niên Ví dụ về người có lí tưởng sống
Dẫn chứng về lí tưởng sống gồm 14 ví dụ về người có lý tưởng sống tiêu biêu khác nhau, được nhiều người biết đến. Qua đó giúp các bạn học sinh dễ dàng đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận về lý tưởng sống hay, ấn tượng nhất.
TOP 14 ví dụ về người có lí tưởng sống mà Download.vn đăng tải dưới đây toàn là dẫn chứng xác thực trong đời sống xã hội. Những tấm gương về lí tưởng sống của thanh niên hiện nay chính là những bằng chứng cụ thể tạo nên sự sống, niềm tin cho một bài văn nghị luận xã hội, giúp bài viết thêm thuyết phục hơn. Bên cạnh đó các bạn xem thêm: dẫn chứng về tinh thần ham học hỏi trong cuộc sống, dẫn chứng về tình bạn, dẫn chứng về tính kỷ luật.
Dẫn chứng về lí tưởng sống hay nhất
Ví dụ về người có lí tưởng sống
Dẫn chứng 1
Anh hùng Lý Tự Trọng tên thật là Lê Hữu Trọng, sinh ra trong một gia đình yêu nước và khởi nghĩa ở Hà Tĩnh. Sống trong cảnh “nước mất, nhà tan”, gia đình Lý Tự Trọng phải lưu lạc nơi xứ người. Lý Tự Trọng ngay từ nhỏ đã cần cù lao động, ham học, thấu hiểu những gian khổ mà nhân dân ta phải chịu dưới ách thống trị của thực dân phong kiến.
Năm mười tuổi, ông được cử sang Quảng Châu học tại trụ sở của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Trung Quốc. Từ đó, Lý Tự Trọng được cử làm nhiệm vụ liên lạc và giúp việc cho cơ quan Tổng bộ của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu. Đồng chí tích cực tham gia liên lạc giữa Tổng bộ với các cán bộ Việt Nam cách mạng thanh niên hoạt động ở Trung Quốc, chuyển thư từ tài liệu cách mạng.
Dẫn chứng 2
Kỹ sư trẻ Vũ Văn Bình sinh năm 1989 tại Hải Phòng, một thanh niên đang ở đỉnh cao khoa học công nghệ của Viettel. Bình là sinh viên Đại học Bách Khoa Hà Nội, tốt nghiệp năm 2012. Anh là trưởng phòng cố định băng rộng tại Viettel, và được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng. Anh và các đồng nghiệp đã nghiên cứu và lựa chọn thành công công nghệ Internet băng thông rộng GPON. Nghiên cứu này đã giúp tập đoàn tạo ra một dịch vụ chất lượng cao hơn. Ngoài ra, Bình còn chủ trì nghiên cứu, tự thiết kế hệ thống chính (hệ thống Headend) của các dịch vụ truyền hình. Vũ Văn Bình không chỉ là một gương mặt trẻ xuất sắc mà còn là một bí thư năng nổ.
Dẫn chứng 3
Remi Camus, chàng trai người Pháp, đã bơi dọc sông Mê Kông tổng chiều dài 4400km để truyền tới thế giới thông điệp mạnh mẽ về việc bảo vệ nguồn nước sạch.
Dẫn chứng 4
Nguyễn Trần Hoàng Việt, anh chàng sinh viên năm 4 ngành ngoại thương ĐH Hoa Sen – đã tạo ra Cây Tri Thức, một giá sách công cộng đặt ở sảnh trường đại học để mọi người có thể cùng nhau chia sẻ đam mê đọc sách. Việt mong mỏi không chỉ chia sẻ tri thức với bạn bè. Cháy bỏng hơn, Việt muốn tập tành xây dựng một cộng đồng sống tử tế, trung thực, trân trọng khi nhận và tự nguyện cho đi.
Dẫn chứng 5
Ca sĩ Thái Thùy Linh nổi tiếng với chương trình Mang âm nhạc đến bệnh viện, hội tụ nhiều nghệ sĩ nổi tiếng tham gia đến các bệnh viện để phục vụ văn nghệ và quyên góp từ thiện cho các bệnh nhân khó khăn.
Dẫn chứng 6
Xuân Diệu thì mải mê với lí tưởng:
"Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn ngồi buồn le lói suốt trăm năm"
Cảm ơn nhà thơ đã đem đến một quan niệm mới về lí tưởng của cuộc sống. Chắc hẳn, chúng ta ai cũng biết Xuân Diệu là một nhà thơ khát khao giao cảm với đời, yêu đời một cách tha thiết nhất. Chính vì thế nhà thơ đem hết trái tim của mình cống hiến cho cuộc sống này, cho lí tưởng sống tràn đầy yêu thương. Xuân Diệu mong muốn được sống chân thành với lí tưởng của riêng ông, được hiến dâng cả cuộc đời để đổi lấy "1 phút huy hoàng", đó là giây phút cháy bỏng của một tâm hồn sống trong lí tưởng. Đồng thời, nhà thơ cũng muốn gửi gắm lí tưởng sống ấy cho mọi người trong cuộc đời. Sống phải sống sao cho đáng sống, phải đem hết dũng cảm để sống cho cái lí tưởng của mình, để từ đó tìm ra phương hướng đi theo tiếng gọi của "lí tưởng" như L. Tôn-xtôi đã khẳng định "không có lí tưởng thì không có phương hướng, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống"
Dẫn chứng 7
Ngày 5. 6. 1911, chàng thanh niên mang tên Nguyễn Tất Thành cùng bàn tay trắng xuống tàu buôn ra nước ngoài, mang trên mình hành trang duy nhất là lí tưởng tìm đường cứu nước. Giả dụ, nếu không có đủ sức mạnh của lí tưởng thì Bác đã không bao giớ có can đảm ra đi. Chính vì thế ta hãy sống, và thực sự sống khi đã có lí tưởng riêng của bàn thân.
Dẫn chứng 8
Liệt sĩ – Bác sĩ Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26 tháng 11 năm 1942 tại Hà Nội trong một gia đình có năm người con. Gia đình bác sĩ Trâm là một gia đình trí thức yêu nước, bố là bác sĩ, mẹ là dược sĩ. Đặng Thùy Trâm có tuổi thơ gian khó trong những năm kháng chiến. Cô là người yêu văn học nên đọc nhiều sách, thuộc lòng nhiều bài thơ, chịu ảnh hưởng về tính cách của những nhân vật lý tưởng trong văn học, chẳng hạn như Pavel Korchagin trong “Thép đã tôi thế đấy”, Ruồi Trâu… Đó là những nhân vật mà lý tưởng sống của họ luôn cháy bỏng trong cô thời xuân xanh. Nối bước cha mẹ, cô thi đỗ Đại học Y khoa Hà Nội và tốt nghiệp trước thời hạn một năm. Ra trường, cô tình nguyện vào Trường Sơn công tác tại chiến trường Quảng Ngãi, cô đã có thể chọn nghề và sống một cuộc đời bình lặng. Nhưng nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của miền Nam ruột thịt, cô gái Hà Nội ấy đã quyết định đi đến nơi ác liệt nhất.
Dẫn chứng 9
Anh em nhà Wright: Từ nhỏ đã mơ ước có thể bay như cánh chim trên bầu trời. Để đạt được ước mơ ấy, họ đã trải qua không ít khó khăn, thất bại và cả những lời chế nhạo: “Chúng tôi không thể không nghĩ họ chỉ là hai kẻ điên rồ tội nghiệp. Họ đứng trên bãi biển nhiều giờ chỉ nhìn những con hải âu bay lên bay xuống.” Nhưng những thất bại và sự chế nhạo không làm cho Wilbur và Orville Wright nản chí, họ đã thành công, sáng tạo ra những chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới.
Dẫn chứng 10
Bác sĩ trẻ Đặng Minh Hiệu (28 tuổi, Khoa Gây mê hồi sức, Bệnh viện ĐH Y Dược TP.HCM) Sẵn sàng xuống tóc để đi vào tuyến lửa Bắc Giang, góp một phần sức lực vào công cuộc chống dịch: "Tôi mong đến ngày có lệnh điều động để bản thân có thể thực hiện được lý tưởng của tuổi trẻ, được cống hiến phần nào sức mình cho cuộc chiến chống đại dịch, sớm trả lại cuộc sống bình yên cho dân. Và hôm nay tôi đã đạt ý nguyện ấy" - bác sĩ Đặng Minh Hiệu nói.
Dẫn chứng 11
Thời gian của bạn không nhiều, vì vậy đừng lãng phí nó để sống cuộc đời của người khác. Đừng nghe những lời giáo điều - đó là sống với kết quả suy nghĩ của người khác. Đừng để âm thanh của những quan điểm khác lấn át đi giọng nói bên trong bạn. Và quan trọng nhất, hãy giữ lấy sự can đảm để đi theo trái tim và trực giác. Chúng biết bạn thực sự muốn trở thành con người như thế nào. Mọi thứ khác chỉ là thứ yếu. – Steve Jobs
Dẫn chứng 12
Khi nhắc đến "Cậu bé Vàng" Toán học của Việt Nam ở thế kỷ XX, chắc hẳn không ai không biết đến Lê Bá Khánh Trình, thần đồng Toán học nổi tiếng. Lê Bá Khánh Trình, sinh ngày 19/5/1962, tại Huế. Ông là một trong 5 học sinh Việt Nam được chọn tham gia Olympic Toán Quốc tế ở Luân Đôn, Anh, năm 1979, khi đó, ông là học sinh tại lớp chuyên toán trường Quốc học Huế. Ông đã đoạt giải nhất với số điểm tuyệt đối, đồng thời, đoạt giải đặc biệt về lời giải độc đáo trong kỳ thi này, và là học sinh Việt Nam duy nhất đoạt giải đặc biệt trong một kỳ thi Toán Quốc tế tính đến nay. Lê Bá Khánh Trình được mệnh danh là “cậu bé vàng của Toán học Việt Nam”. Sau kỳ thi trên, ông theo học tại khoa Toán trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Matxcơva mang tên Lô-mô-nô-xốp, Matxcơva và bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ. Trở về Việt Nam, ông làm giảng viên Khoa Toán - Tin học, Trường ĐH Khoa học tự nhiên TPHCM kiêm thỉnh giảng Trường phổ thông Năng khiếu, ĐH Quốc gia TPHCM, cho đến nay. Năm 2005, ông là trưởng đoàn học sinh giỏi toán Việt Nam đi thi IMO 46 tại Mê-hi-cô. Năm 2013, ông tiếp tục là trưởng đoàn Việt Nam tham dự Olympic toán quốc tế (IMO-International Mathematics Olympiad) lần thứ 54 từ ngày 18-28/7, tại Santa Marta (Colombia) đã giành về 6 huy chương, với 3 Huy chương Vàng và 3 Huy chương Bạc. Nhiều năm liên tiếp ông có đóng góp to lớn trong việc giảng dạy những học sinh được chọn để đi thi Olympic toán quốc tế.
Dẫn chứng 13
Nguyễn Văn Thạc sinh năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội trong gia đình một thợ thủ công. Thạc là con thứ 10 trong gia đình 14 anh chị em. Vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ gia đình Thạc phải sơ tán về Cổ Nhuế, Từ Liêm. Khi ấy không có việc làm mà gia đình đông con nên tài sản nhanh chóng cạn dần. Mẹ Thạc phải đi cắt cỏ bán lấy tiền. Tuy nhà nghèo nhưng Thạc vừa đi học vừa đi làm thêm giúp đỡ bố mẹ. Thạc là một học sinh rất giỏi và đã thi đỗ vào Khoa Toán – Cơ của Đại học Tổng hợp, Thạc đã học thêm để qua chương trình năm học thứ hai để lên năm thứ ba. Nhưng vào khoảng thời gian kháng chiến đó đất nước đang rất cần những người trẻ, Thạc đã dừng việc học để bổ sung lực lượng chiến đấu cho quân đội. Trong thời gian kháng chiến anh thường xuyên viết thư kể câu chuyện về cho gia đình. Kể từ bức thư cuối cùng anh gửi về gia đình ngày 21/7/1972 thì gia đình không nhận được bức thư nào từ anh. Tháng 5/1973 gia đình nhận tin anh đã hi sinh và được chôn cất tại tỉnh Quảng Trị do bị thương nặng và không thể chữa trị.
Tấm gương Nguyễn Văn Thạc cho em thấy được sự cố gắng rèn luyện, học tập trau dồi bản thân và cả sự kiên cường. Anh đã học tập không ngừng nghỉ để có thể học nhanh nhất có thể. Anh cũng đã cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước, bảo vệ những người thân yêu trước kẻ địch. Đây là hình mẫu lý tưởng để cho thanh niên hiện nay học tập, rèn luyện có lý tưởng sống đúng đắn đó là lý tưởng của Đảng.
Dẫn chứng mẫu 14
Nguyễn Văn Trỗi: “Còn giặc Mĩ thì không gia đình nào hạnh phúc” Trước khi ngã xuống anh còn kịp hô “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Hồ Chí Minh muôn năm!”