Hỗ trợ tư vấn
Tư vấn - Giải đáp - Hỗ trợ đặt tài liệu
Mua gói Pro để tải file trên Download.vn và trải nghiệm website không quảng cáo
Tìm hiểu thêm »Nhằm giúp học sinh viết cách viết văn, Download.vn sẽ cung cấp tài liệu Bài văn mẫu lớp 7: Đoạn văn bộc lộ cảm xúc về một trong các bài thơ Mẹ, Ông đồ, Tiếng gà trưa.
Tài liệu bao gồm dàn ý và 12 đoạn văn mẫu lớp 7. Các bạn học sinh cùng tham khảo để có thêm ý tưởng cho bài viết của mình.
Đề bài: Hãy viết đoạn văn bộc lộ cảm xúc của em sau khi đọc xong một trong các bài thơ: Mẹ (Đỗ Trung Lai), Ông đồ (Vũ Đình Liên), Tiếng gà trưa (Xuân Quỳnh).
Bài thơ Mẹ của Đỗ Trung Lai khiến tôi cảm thấy rất yêu thích. Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh cây cau - một loài cây đã rất quen thuộc ở mỗi làng quê Việt Nam, đặt trong sự đối chiếu với hình ảnh người mẹ. Sự đối lập giữa mẹ và câu được thể hiện qua các cụm từ “Lưng mẹ còng rồi - Cau thì vẫn thẳng”, “Cau - ngọn xanh rờn, Mẹ - đầu bạc trắng”, “Cau gần với trời - Mẹ thì gần đất”. Từ đó, tác giả muốn nhấn mạnh vào sự thay đổi của người mẹ trước thời gian về tuổi tác, ngoại hình. Đặc biệt, hình ảnh so sánh “Một miếng cau khô - Khô gầy như mẹ” trong khổ thơ tiếp theo càng làm nổi bật sự giàu nua, héo hon của người mẹ. Và khi tuổi già kéo đến, hình dáng của mẹ dường như cũng trở nên hao gầy, bởi một cuộc đời hy sinh cho con cái. Từ “nâng” và “cầm” đã thể hiện được tình cảm của người con dành cho mẹ. Càng yêu thương, trân trọng bao nhiêu, con lại cảm thấy xót xa bấy nhiêu. Cảm xúc dồn nén lại tuôn chảy thành những giọt nước mắt. Bài thơ “Mẹ” của Đỗ Trung Lai đem lại nhiều cảm xúc, giúp tôi thêm yêu quý và trân trọng mẹ của mình hơn.
Khi đọc “Mẹ” của Đỗ Trung Lai, em cảm thấy thật xúc động về tình mẫu tử. Trước tiên, bài thơ là lời của người con muốn bày tỏ tình cảm dành cho người mẹ. Tác giả đặt mẹ trong sự so sánh tương quan đối lập với “cau”. Những câu thơ thể hiện điều đó như “Lưng mẹ còng rồi - Cau thì vẫn thẳng” và “Cau - ngọn xanh rờn, Mẹ - đầu bạc trắng”, “Cau gần với trời - Mẹ thì gần đất” đã giúp người đọc hiểu được rằng thời gian đang khiến mẹ ngày càng già đi. Đặc biệt, hình ảnh “Một miếng cau khô - Khô gầy như mẹ” khiến người đọc càng thêm xót xa, quặn thắt khi nghĩ về mẹ. Và người con trong bài đã nâng niu vô cùng cẩn thận “Con nâng trên tay - Không cầm được lệ”. Ở cuối bài, người con đã tự hỏi “Ngẩng hỏi giời vậy - Sao mẹ ta già”. Câu hỏi tu từ, hỏi đấy mà dường như chính người con cũng đã biết được câu trả lời. Chúng ta càng hiểu được rằng chẳng thể ngăn được guồng quay của thời gian tàn nhẫn. Hình ảnh cuối bài thơ “mây bay về xa” gợi ra mái tóc của mẹ ngày càng bạc trắng, đến một ngày nào đó sẽ rời xa những đứa con. Bài thơ khiến tôi cảm thấy thật xúc động về tình cảm mẫu tử thiêng liêng, chân thành.
Một trong những tác phẩm hay viết về người mẹ phải kể đến “Mẹ” của Đỗ Trung Lai. Khi đọc bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được đây là lời của người con đang bày tỏ cảm xúc về người mẹ của mình. Tác giả đã sử dụng hình ảnh cây cau vốn gần gũi và quen thuộc, để bộc lộ nỗi xót xa khi mẹ ngày càng già đi. Những hình ảnh đối lập như “Lưng mẹ còng rồi - Cau thì vẫn thẳng”, “Cau - ngọn xanh rờn, Mẹ - đầu bạc trắng” đã gợi ra sự liên tưởng về tuổi già của mẹ. Cùng với đó, nhà thơ còn sử dụng biện pháp tu từ so sánh “Một miếng cau khô – Khô gầy như mẹ” cho thấy sự già nua héo hắt của người mẹ. Trước hiện thực khắc nghiệt đó, người con đã bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp: “Con nâng trên tay/Không cầm được lệ” - đó là nỗi đau đớn, xót xa. Tất cả được dồn nén để rồi người con tự hỏi chính mình: “Ngẩng đầu hỏi giờ/Sao mẹ ta già?”. Câu hỏi không nhận được lời đáp. Không ai trả lời được vì sao mẹ già, cũng không ai ngăn được guồng quay của thời gian tàn nhẫn. Hình ảnh “mây bay về xa” cũng giống như mái tóc mẹ bạc hòa cùng với mây trắng trên cao thể hiện một niềm xót xa, tiếc nuối. Qua bài thơ, người đọc cũng hiểu được thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm đó là hãy trân trọng những giây phút được ở bên cạnh người mẹ, biết yêu thương và trân trọng người mẹ của mình.
“Mẹ” của Đỗ Trung Lai đã đem đến nhiều ấn tượng cho người đọc. Bài thơ là lời bày tỏ của người con dành cho mẹ của mình. Hình ảnh “mẹ” được đặt trong tương quan so sánh với “cau”. Mẹ hiện lên với tấm lưng nhỏ bé trái ngược với hình dáng cây cau trong vườn: “Lưng mẹ còng rồi/Cau thì vẫn thẳng” khiến con càng thêm đau xót. Theo dòng chảy của thời gian, cây cau ấy ngày càng lớn cao nhưng mẹ của con lại “ngày một thấp”. Tuổi giờ giờ đã in hằn lên bóng dáng của mẹ. Con nhớ những ngày thơ bé, miếng cau bổ tư, nhưng hôm nay miếng cau ấy bổ thành tám miếng nhỏ mà “Mẹ còn ngại to!”. Nhìn miếng cau khô quen thuộc, con lại liên tưởng đến bóng hình mẹ già đi mỗi ngày: “Một miếng cau khô/Khô gầy như mẹ”. Chứng kiến điều này, người con cảm thấy xót xa, mà đôi tay run run “nâng” với cả tấm lòng kính trọng. Nhưng cuối cùng, đứng trước khuôn mặt quen thuộc đang mất đi sức xuân ấy, con “không cầm được lệ”. Khi đọc đến đây, chúng ta cảm thấy thật đồng cảm với nhân vật con trong bài. Câu hỏi tự vấn “Sao mẹ ta già?” như càng khẳng định sự bất lực, đau xót khi không thể níu kéo dòng thời gian đang trôi để níu kéo mẹ ở lại bên con mãi mãi. Việc sử dụng thể thơ bốn chữ ngắn gọn, hình ảnh thơ đối lập cùng biện pháp so sánh đã giúp khắc họa chân thực hình ảnh mẹ. Qua bài thơ, người đọc thêm yêu thương, trân trọng người mẹ nhiều hơn.
Bài thơ Ông đồ là một bài thơ chứa đầy hàm súc, là sự tiếc nuối của tác giả về một nền văn học đã từng rất rực rỡ. Ở hai khổ thơ đầu, tác giả đã tái hiện lại không khí ngày tết xưa khi ông đồ còn được trọng dụng, Khi tết đến xuân về, hoa đào đua nhau khoe sắc thắm, phố phường đông vui, tấp nập và ông đồ xuất hiện bên hè phố bán đôi câu đối để mọi người trưng trong nhà như một văn hóa không thể thiếu ngày đầu năm mới. Những nét chữ thanh thoát như phượng múa rồng bay, gửi gắm cả tâm hồn và tấm lòng người viết. Thế nhưng, theo thời gian, phong tục treo câu đối ngày tết không còn được ưa chuộng. Từ “nhưng” như nốt trầm trong khúc ca ngày xuân, cho thấy sự thay đổi trong bước đi chầm chậm của thời gian. Người tri âm xưa nay đã là khách qua đường. Niềm vui nhỏ nhoi của ông đồ là được mang nét chữ của mình đem lại chút vui cho mọi người trong dịp tết đến xuân về nay đã không còn. Nỗi buồn của lòng người khiến những vật vô tri vô giác như giấy đỏ, bút nghiên cũng thấm thía nỗi xót xa. Hình ảnh ông đồ xưa vốn gắn với nét đẹp truyền thống về nền văn hóa nho học, nay dần bị lãng quên “Lá vàng bay trên giấy/Ngoài trời mưa bụi bay”. Ông vẫn ngồi đấy nhưng chẳng mấy ai còn để ý, lá vàng rơi giữa ngày xuân trên trang giấy nhạt phai như dấu chấm hết cho sự sinh sôi. Hạt mưa bụi nhạt nhòa bay trong cái se lạnh như khóc thương, tiễn biệt cho một thời đại đang dần trôi vào dĩ vãng. Ta như cảm nhận được qua tứ thơ là tâm trạng của thi nhân, phảng phất một nỗi xót thương, nỗi niềm hoài cổ nhớ tiếc của nhà thơ cho một thời đã qua. Và câu hỏi cuối bài thơ như lời tự vấn cũng là hỏi người, hỏi vọng về quá khứ với bao ngậm ngùi “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?”. Ông đồ vắng bóng không chỉ khép lại một thời đại của quá khứ, đó còn là sự mai một truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Bài thơ đã chạm đến những rung cảm của lòng người, để lại những suy ngẫm sâu sắc với mỗi người.
Đến với bài thơ “Ông đồ”, Vũ Đình Liên đã để lại cho người đọc nhiều suy tư. Hình ảnh ông đồ vốn rất đỗi quen thuộc trong xã hội xưa, họ là những người có học thức, tài năng. Trong quá khứ, mỗi năm Tết đến, ông đồ lại bày mực, tàu giấy đỏ bên phố đông người để viết câu đối. Ông viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp: “Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay” khiến người xem tấm tắc khen ngợi, trân trọng: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng mùa rồng bay”. Nhưng thời gian trôi qua, cùng với sự phát triển của xã hội, ông đồ vẫn ngồi đấy, nhưng không có ai hay. Những vật dụng quen thuộc như “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” được tác giả nhân hóa nhằm gợi ra nỗi buồn của chính người nghệ sĩ khi không còn được biết đến. Ở cuối bài thơ, câu hỏi tu từ “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?” giống như một lời than trách cho số phận của ông đồ trước sự mai một của những giá trị truyền thống. Đây là một trong tác phẩm mà em yêu thích nhất của nhà thơ Vũ Đình Liên.
“Ông đồ” của Vũ Đình Liên là tác phẩm đã để lại cho em ấn tượng sâu sắc. TÁc giả đã khắc họa hình ảnh ông đồ từ quá khứ đến hiện tại. Trong quá khứ, ông đồ xuất hiện trên phố với hoa đào, với mực tàu giấy đỏ và viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng múa rồng bay” khiến mọi người xem tấm tắc khen ngợi: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng mùa rồng bay”. Đó là một thời vàng son khi ông đồ được trân trọng. Nhưng một thời vàng son đã không còn, mỗi năm mỗi vắng, người ta không còn quan tâm đến ông đồ nữa. Hình ảnh nhân hóa “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi ra nỗi buồn của chính người nghệ sĩ khi không còn được biết đến. Để rồi năm nay đào lại nở, nhưng không còn thấy ông đồ nữa. Câu hỏi tu từ ở cuối bài giống như một lời than trách cho số phận. Bài thơ đã thể hiện tình cảnh đáng thương của ông đồ nhưng qua đó toát lên niềm cảm thương trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ người xưa của nhà thơ.
Ông đồ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Vũ Đình Liên. Bài thơ khiến tôi cảm thấy thực sự yêu thích và ấn tượng. Theo như tìm hiểu, ông đồ vốn là những người có học thức, tài năng và được trọng vọng. Hình ảnh ông đồ xuất hiện trong xã hội xưa, thường vào dịp Tết cổ truyền. Ông đồ xuất hiện trên phố với hoa đào, với mực tàu giấy đỏ và viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng múa rồng bay” khiến mọi người xem tấm tắc khen ngợi: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng mùa rồng bay”. Nhưng một thời vàng son đã không còn, mỗi năm mỗi vắng, người ta không còn quan tâm đến ông đồ nữa. Những hình ảnh nhân hóa như “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi ra nỗi buồn của chính người nghệ sĩ khi không còn được biết đến. Để rồi năm nay đào lại nở, nhưng không còn thấy ông đồ nữa. Và câu hỏi tu từ vang lên như một lời than trách cho số phận của ông đồ: “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ”. Bài thơ đã giúp tôi hiểu hơn về ông đồ, về một quá khứ đẹp đẽ của dân tộc.
Tiếng gà trưa là một trong những bài thơ hay của nhà thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ đã khơi gợi những kỉ niệm tuổi thơ và tình cảm bà cháu. Tiếng gà vốn là một âm thanh quen thuộc ở làng quê Việt Nam. Bởi vậy mà trong bài thơ “Tiếng gà trưa”, âm thanh này đã gợi nhắc nhân vật trong bài về những kỉ ức về tuổi thơ. Người cháu đang trên đường hành quân, nhìn thấy xóm làng liền ghé vào nghỉ ngơi. Khi nghe thấy tiếng gà, người cháu nhớ đến những ngày tháng còn sống bên cạnh bà. Từng kỉ niệm đẹp đẽ, ấm áp lần lượt hiện lên trong suy nghĩ của người cháu. Cháu nhớ nhất là khi tò mò xem bà đẻ trứng, rồi bị bà mắng. Lòng cháu ngây thơ tin lời bà, sợ mặt bị lang liền về lấy gương soi. Đặc biệt là hình ảnh người bà - một người hiền hậu, tần tảo. Bà đã luôn ân cần, hi sinh và mệt nhọc để mong có được một đàn gà để cuối năm bán đi lấy tiền sắm sửa quần áo cho cháu. Tuổi thơ sống bên bà tuy khó khăn, nhưng hạnh phúc. Điều đó khiến cho cháu không thể nào quên được. Tiếng gà trưa cũng giống như tiếng gọi của quê hương thân thuộc. Tiếng gà không chỉ là một âm thanh bình thường mà con người nghe thấy. Mà nó đã ám ảnh trong lòng người cháu với những ước mơ. Cuối cùng bài thơ cho người đọc thấy được mục đích chiến đấu của người chiến sĩ. Trong khổ thơ cuối, từ “vì” được điệp lại tới bốn lần từ đó khẳng định mục đích chiến đấu cao cả của người chiến sĩ. Người cháu yêu thương, kính trọng bà. Nhớ về bà bằng lòng biết ơn chân thành. Bà là một trong những lý do để cháu chiến đấu đem lại hòa bình cho đất nước cũng là cho bà. Mạch cảm xúc của bài thơ diễn ra một cách tự nhiên. Từ hình ảnh tiếng gà nhớ về người bà tần tảo, để rồi bộc lộ tình yêu với bà và lời khẳng định mục đích chiến đấu cao cả. Tình cảm bà cháu trong bài thơ vô cùng chân thành, cảm động.
Xuân Quỳnh có nhiều tác phẩm hay, trong đó bài Tiếng gà trưa đã để cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc. Khi đọc bài thơ, dường như mỗi người đều sẽ cảm thấy được quay về những năm tháng tuổi thơ. Nhân vật trữ tình được nhà thơ khắc họa là một người chiến sĩ đã xa nhà nhiều năm, trên đường hành quân xa xôi, anh dừng chân lại bên xóm nhỏ. Bất ngờ, tiếng gà vang lên: “Cục... cục tác... cục ta” đã khiến anh nhớ lại những kỉ niệm của tuổi thơ. Hình ảnh về những ổ rơm hồng đầy trứng, con gà mái mơ hay con gà mái vàng chắc hẳn đã quá quen thuộc với bất cứ đứa trẻ sống ở thôn quê. Thú vị nhất có lẽ phải nhắc đến kỉ niệm về một lần xem trộm gà đẻ trứng, bị bà mắng. Lời trách của bà giúp tôi cảm nhận rõ hơn về sự quan tâm, lo lắng và yêu thương của bà dành cho cháu. Nhưng tiếng gà trưa không chỉ gợi lại cho người chiến sĩ về kỉ niệm tuổi thơ, mà còn là hình ảnh người bà. Xuân Quỳnh đã khắc họa một người bà tần tảo, chịu khó và giàu đức hi sinh. Những câu thơ đọc lên mà thật xúc động nghẹn ngào. Bà luôn lo lắng trời làm sương muối khiến đàn gà đổ bệnh. Bởi vậy bà mong sao cho mưa thuận gió hòa, thời tiết thuận lợi để đàn gà có thể lớn lên khỏe mạnh. Cuối năm bà sẽ bán đàn gà đi để mua cho cháu một bộ quần áo mới để đón Tết. Với người cháu, hạnh phúc chẳng hiện hữu ngay ở những điều bình dị, giản đơn nhất trong cuộc sống đời thường. Ở khổ thơ cuối, người cháu đã khẳng định rõ ràng mục đích chiến đấu. Chúng ta thấy được tình yêu quê hương, đất nước và hơn hết là tình yêu dành cho bà của người chiến sĩ. Tiếng gọi “Bà ơi” vang lên thật trìu mến, yêu thương. Cháu chiến đấu cũng vì mong muốn có thể đem lại cuộc sống hòa bình cho bà. Điều này gợi cho chúng ta những ấn tượng thật tốt đẹp về hình ảnh người chiến sĩ. Có thể khẳng định rằng, với ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gần gũi, bài thơ Tiếng gà trưa đã giúp người đọc cảm nhận được tình bà cháu thật đẹp đẽ.
Bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh đã gợi nhắc cho người đọc những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ, cũng như tình cảm bà cháu đầy sâu sắc. Nhân vật trữ tình trong bài là một người chiến sĩ đã xa nhà nhiều năm, trên đường hành quân xa xôi, anh được dừng chân bên xóm nhỏ để nghỉ ngơi, nghe thấy tiếng gà trưa mà nhớ về những kỉ niệm tuổi thơ. Người chiến sĩ đã nhớ về hình ảnh của những ổ rơm hồng đầy trứng, hình ảnh của gà mái mơ, gà mái vàng với những màu sắc rất riêng, độc đáo. Thú vị nhất có lẽ phải nhắc đến kỉ niệm về một lần xem trộm gà đẻ trứng, bị bà mắng. Lời trách của bà giúp tôi cảm nhận rõ hơn về sự quan tâm, lo lắng của bà dành cho cháu. Tiếng gà trưa không chỉ gợi lại cho người chiến sĩ về kỉ niệm tuổi thơ, mà còn là hình ảnh người bà tần tảo, hy sinh. Bà mang những phẩm chất đẹp đẽ của người Việt Nam. Hình ảnh đôi bàn tay chai sần của bà hiện lên thật đẹp. Bà luôn lo lắng trời làm sương muối khiến đàn gà đổ bệnh. Bởi vậy bà mong sao cho mưa thuận gió hòa, thời tiết thuận lợi để đàn gà có thể lớn lên khỏe mạnh, cuối năm bà có thể bán chúng đi để mua cho cháu một bộ quần áo mới để đón Tết. Tiếng gà trưa còn gợi cho cháu những giấc mơ về hạnh phúc. Có lẽ, với cháu, hạnh phúc chẳng hiện hữu ngay ở những điều bình dị, giản đơn nhất trong cuộc sống đời thường. Khi trưởng thành, cháu tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Trước hết đó là vì lòng yêu đất nước - “vì lòng yêu Tổ quốc”, sau đó là vì tình yêu quê hương - “yêu xóm làng thân thuộc”. Và hơn hết đó còn là vì bà - “Bà ơi, cũng vì bà”. Tiếng gọi “Bà ơi” vang lên thật trìu mến, yêu thương. Cháu chiến đấu cũng vì mong muốn có thể đem lại cuộc sống hòa bình cho bà. Có thể khẳng định, “Tiếng gà trưa” với ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gần gũi đã giúp người đọc cảm nhận được tình bà cháu thật đẹp đẽ. Qua đó, chúng ta cũng hiểu hơn về vẻ đẹp của người chiến sĩ trong chiến tranh.
Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh là một bài thơ hay. Tiếng gà hay chính là tiếng gọi của quê hương, gia đình, xóm làng còn in đậm trong lòng người lính ra trận, trở thành hành trang của người lính trẻ. Người chiến sĩ ấy đang trên đường hành quân. Cuộc hành trình đầy gian lao, vất vả. Khi nhìn thấy xóm làng ở phía xa, liền dừng chân vào nghỉ ngơi. Bỗng âm thanh của tiếng gà vang lên “Cục… cục tác cục ta” đã đánh thức suy nghĩ của người chiến sĩ những kỉ niệm tuổi thơ - những năm tháng được sống bên bà. Nhà thơ đã khéo léo sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ “nghe” cùng với các hình ảnh ẩn dụ “xao động nắng trưa”, “bàn chân đỡ mỏi”, “gọi về tuổi thơ” đã nhấn mạnh nỗi xúc động của người chiến sĩ khi nghe tiếng gà trưa. Đó là hình ảnh “con gà mái mơ” - mình hoa đốm trắng, “con gà mái vàng” - lông óng như màu nắng vốn gần gũi với cuộc sống nông thôn nơi làng quê Việt. Đặc biệt nhất là kỉ niệm khi cháu tò mò xem gà đẻ trứng, bị bà mắng. Lời mắng của bà khiến đứa cháu lòng đầy lo lắng. Đó là những nỗi lo âu hồn nhiên rất con trẻ. Đặc biệt, vẻ đẹp của người bà hiện lên vô cùng chân thực, đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Đôi bàn tay của bà “khum soi trứng” - nâng niu, chắt chiu từng quả trứng để con gà mái ấp. Cuộc đời của bà làm lụng vất vả cũng là vì con vì cháu. Bà chẳng nghĩ gì đến bản thân mình. Rồi khi mùa đông tới, trời trở lạnh, bà lại lo lắng đàn gà sẽ chết sẽ không có gì để bán lấy tiền mua quần áo mới cho cháu. Khổ thơ cuối cùng là tình cảm sâu sắc của cháu dành cho bà. Tiếng gà trưa là nơi lưu giữ những hạnh phúc, những ước mơ mà cháu vẫn thường mong ước thuở nhỏ. Điệp từ “vì” nhằm khẳng định mục đích của cháu khi tham gia chiến đấu. Trước hết đó là vì lòng yêu đất nước - “vì lòng yêu Tổ quốc”, yêu quê hương - “yêu xóm làng thân thuộc”. Sau cùng đó chính là vì bà - cháu hy vọng bà có thể sống bình yên. Đó đều là những mục đích chiến đấu hết sức cao cả, thiêng liêng. Âm thanh “tiếng gà trưa” bao trùm khắp cả bài thơ - không chỉ gợi về những kỷ ức đẹp đẽ của tuổi thơ mà còn chứa đựng những tình cảm sâu sắc của người cháu dành cho bà của mình.
Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây: