Văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt 4 Dàn ý + 22 bài phân tích Tràng

Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân gồm 22 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo 4 gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình độ học văn học của mình với những bài văn mẫu phân tích nhân vật hay.

Với 22 bài phân tích nhân vật Tràng cực chất dưới đây sẽ là tài liệu thiết thực đối với các em trong quá trình học tập, tự học và tự đọc để nâng cao mở rộng vốn cảm nhận văn học của mình thêm phong phú, làm văn một cách sáng tạo. Bên cạnh đó để nâng cao kỹ năng viết văn các em xem thêm: phân tích nhân vật A Phủ, phân tích bà cụ Tứ, phân tích cảnh vượt thác sông Đà, phân tích hình tượng người lái đò.

Dàn ý phân tích nhân vật Tràng

I. Mở bài phân tích nhân vật Tràng

  • Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
  • Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.

II. Thân bài phân tích nhân vật Tràng

1. Hoàn cảnh

  • Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, ...
  • Hoàn cảnh bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, ...

2. Tâm trạng và hành động

a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ

- Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.

- Lần gặp 2:

  • Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
  • Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
  • Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

b. Trên đường về:

  • Vẻ mặt “có cái gì phơn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”. Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.
  • Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

c. Khi về đến nhà:

  • Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
  • Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
  • Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
  • Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:

  • Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, ...), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
  • Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

- Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.

III. Kết bài phân tích nhân vật Tràng

  • Nêu suy nghĩ về nhân vật Tràng.
  • Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
  • Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

.................

Tải file tài liệu để xem thêm dàn ý phân tích nhân vật Tràng

Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Tràng

Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Tràng
Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Tràng

Phân tích nhân vật Tràng cực hay - Mẫu 1

Văn học chính là lăng kính chủ quan để phản ánh hiện thực một cách khách quan và chính xác nhất. Bởi vậy nên nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của mình để phác họa thành công bức tranh về cuộc sống và sinh hoạt của người nông dân trong nạn đói năm 1945 qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã đem vào thiên truyện của mình một điểm sáng mới, đó chính là niềm tin và niềm hi vọng vào một tương lai tốt đẹp dù hiện tại có khó khăn đến nhường nào.

Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn và ngòi bút của ông thật sắc sảo khi tập trung miêu tả những gì phong tục tập quán và đời sống làng quê với những “thú vui đồng quê hay là phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân được in trong tập “Con chó xấu xí”, viết về người nông dân trong tình cảnh thê thảm của nạn đói năm 1945 với bản chất tốt đẹp và lương thiện. Bằng khả năng sáng tạo của mình nhà văn đã thành công về mặt nghệ thuật miêu tả về tâm lí nhân vật và hàng loạt các biện pháp nghệ thuật đặc sắc khác khi xây dựng nhân vật của mình.

Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ hết nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của mình còn chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, con người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn lẫn nhau , làm cho nhau đau khổ. Nhưng tác giả Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật Tràng và người vợ nhặt và bà cụ Tứ.

Chúng ta từng kinh hãi trước những “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và những mùi gây của xác người chết và cả mùi ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy nhưng lại lạ thay chúng ta không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường và dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ nhặt nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng và một con người – thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng đầy những tình cao đẹp.

Sự đói nghèo bần hàn đó , vây quanh lấy hắn, nhưng trong đầu Tràng luôn hiện lên những suy nghĩ lạ lùng thỉnh thoảng lại thấy Tràng ngửa mặt cười một cái gì đó. Tràng thật sự là một con người kỳ lạ . Giữa khung cảnh nghèo đói và khổ cực ấy. Một con người xấu xí và thô kệch nghèo khổ như Tràng những tưởng vĩnh viễn phải sống kiếp cô độc vì chả có gì thu hút người khác thì làm sao mà lấy được vợ cơ chứ . Nhưng không ngờ Tràng vẫn có thể lấy được vợ, mà còn lấy được một cách dễ dàng “nhặt” được vợ như nhặt một cục đá mà thôi.

Chỉ bằng những câu nói bông đùa vu vơ, mà Tràng lại nhặt được vợ “Muốn ăn cơm trắng với giò, thì ra đây đẩy xe bò với anh , Chỉ có những câu nói như thế thôi nhưng một cô gái ngoan ngoãn ra đẩy xe với hắn. Rồi theo hắn về nhà làm vợ. Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện vô cùng thú vị, và độc đáo làm thay đổi số phận của nhân vật Tràng. Làm cho câu chuyển sang một hướng rẽ mới thú vị và thu hút người đọc. Hành động nhặt được vợ của Tràng khiến người ta phải suy nghĩ vì bởi việc lấy vợ lấy chồng là việc quan trọng trong đời người, bình thường người ta phải làm thật cẩn thận suy tính nhiều thứ trước khi lấy vợ . Cô gái làm vợ Tràng cũng thật thiệt thòi biết bao và làm vợ người ta mà không có một lễ cưới, không được làm dăm ba mâm ra mắt họ hàng cũng không có giấy đăng ký kết hôn và cũng không có chứng nhận của hai bên họ hàng.

Trước khi đưa vợ về nhà, Tràng đã rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới và dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh Tràng từ một kẻ thô kệch và lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lý và tinh tế đến lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng và hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc lại vừa rạng rỡ , vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, hắn đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui và niềm niềm hạnh phúc khi lấy được vợ.

Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu và xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sợ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành sự thực. Điều Tràng mong ngóng nhất lúc này là đợi mẹ mình về nhà và để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu vợ nhặt với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng và xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lý và rất nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lý và suy nghĩ của Tràng.

Bà đã chấp nhận người vợ nhặt của anh cu Tràng . Tình huống khiến người đọc nhớ mãi là hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là những hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên mà là hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái gọi là đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng và toàn nói những câu chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị và đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo ấy . Ai cũng muốn có một bữa cơm để đón dâu có mâm cao và cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn nên chỉ có , “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con dâu và Tràng .

Đến nhân vật này, tác giả Kim Lân tỏ rõ bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật. Bà cụ Tứ đến mãi giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này thì tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, tác giả Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ dàng hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các tác giả muốn nhân vật nổi bật và cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình thế rất căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng nghỉ không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong chính nội tâm của mỗi nhân vật đó . Bà cụ Tứ là một người điển hình. Việc Tràng lấy được vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức của người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà rất ngạc nhiên và ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà của mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng đến ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”.

Cử chỉ và hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn nhau giữa nỗi tủi cực và nỗi lo và cả niềm vui nỗi buồn cứ hoà quyện vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng bà đầy xót thương. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này thì người ta mới lấy đến con mình, mà con mình vì thế mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng đã sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi, chúng mày đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”

Phân tích Tràng - Mẫu 2

Kim Lân là cây bút thành công về đề tài nông thôn và người nông dân, có một số tác phẩm có giá trị về đề tài này. Thấp thoáng trong các tác phẩm của Kim Lân là cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khó, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, thật thà, hóm hỉnh, thông minh. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông để lại khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. Nhưng tiêu biểu nhất là tác phẩm “ Vợ nhặt”. Qua tác phẩm, tác giả không chỉ khắc họa thành công diễn biến tâm lí nhân vật Thị mà còn khắc họa thành công diễn biến tâm lí nhân vật Tràng.

Truyện “Vợ nhặt” có tiền thân là tiểu thuyết xóm ngụ cư, tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng tám nhưng còn dở dang và mất bản thảo. Hòa bình được lập lại ( 1954) dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện “ Vợ nhặt”. Tác phẩm được in trong tập “ Con chó xấu xí” năm 1962.

Tràng là một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, tốt bụng, chân thành và cởi mở. Tràng có ngoại hình thô kệch, xấu xí và xoàng xĩnh với “thân hình to lớn, lưng to như gấu”, cái mặt ấn tượng bởi “hai con mắt nhỏ tý gà gà”. Là người không bình thường ăn nói thì cộc cằn, thô lỗ “làm đếch gì có vợ”. Tràng là người hiền lành, vui vẻ hay gần gũi với trẻ con và được bọn chúng yêu quý, nên tính cách có phần trẻ con. Anh là dân ngụ cư làm nghề đánh xe bò thuê. Sống cùng với mẹ già trong một căn nhà rúm ró, xiêu vẹo. Tràng là người cởi mở và tốt bụng, Tràng đùa vui với các cô gái xa lạ, xưng hô thân mật cũng là người nhân hậu, giữa lúc đói, anh sẵn sàng đãi người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc. Tràng cho thị ăn không phải vì để trả ơn mà đơn giản là sự cảm thông.

Tràng nhặt vợ về rất đơn giản, chỉ bằng câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Câu nói ấy ẩn chứa niềm khao khát tổ ấm gia đình. Trước cái cười tít mắt của thị, Tràng thích lắm và cảm nhận được niềm vui sướng và hạnh phúc. Lúc đầu thì có ý định đưa người đàn bà xa lạ về nhà Tràng cũng có chút phân vân, anh nghĩ “ thóc gạo thế này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Thế mà cuối cùng anh vẫn quyết định dắt thị về nhà, phải chăng sự khát khao hạnh phúc gia đình bấy lâu nay ẩn dấu trong tâm hồn hôm này được thực hiện.

Trên đường về nhà thái độ của Tràng có nhiều khác lạ: “ mặt hắn có một vẻ gì phởn phở khác thường, hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Đó là niềm vui mộc mạc của người đàn ông nghèo, lần đầu được đi bên một người phụ nữ.Mặc dù người vợ được hắn nhặt về nhưng Tràng không hề rẻ rúng,khinh miệt thị.Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng coi chuyện lấy Thị là một điều nghiêm túc nên đã đưa Thị vào chợ mua cho Thị cái thúng, đãi một bữa cơm và mua hai hào dầu.Trước con mắt tò mò của dân xóm ngụ cư thì vênh vênh tự đắc. Anh rất vui, lòng lâng lâng khó tả.

Khi về đến nhà, Tràng ăn nói có văn hóa hơn, biết quan tâm đến Thị, thắc mắc “quái, sao nó lại buồn thế nhỉ”? Tràng sốt ruột “ chạy ra chạy vào”, ngóng chờ lúc mẹ về. Tràng hồi hộp lo lắng mong chờ câu trả lời của mẹ. Khi mẹ đồng ý thì thở phào một cái như nhẹ hẳn đi.

Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, nhận ra mọi thứ xung quanh thay đổi, thấy mình trưởng thành, hạnh phúc và có trách nhiệm với vợ con “bỗng hẳn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Với Tràng căn nhà này sẽ là cái “ tổ ấm che mưa che nắng… anh cùng vợ sinh con ở đây” và anh cảm thấy “ bây giờ Tràng nên người, có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này”.

Những suy nghĩ của Tràng biểu hiện niềm khao khát một mái ấm gia đình thực sự, một ước mơ chính đáng của con người khi trưởng thành là thể hiện cách sống đẹp của Tràng. Bữa cơm đầu tiên đạm bạc, thảm hại nhưng vẫn tràn đầy yêu thương. Tràng cũng nghĩ tới sự thay đổi dù vẫn chưa ý thức được đầy đủ “ trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” là biểu tượng của niềm tin và hi vọng, rồi đây nhân dân lao khổ sẽ cùng đứng lên đấu tranh giành lại cuộc đời mình, đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt. Gieo hạt giống hi vọng mãnh liệt của tâm hồn Tràng, gia đình Tràng và tất cả bạn đọc. Tràng là biểu tượng của niềm khao khát hạnh phúc gia đình, niềm tin vào cuộc sống vào tương lại của những người nghèo khổ ngay trên bờ vực của cái chết.

Qua diễn biến tâm lí của nhân vật Tràng trong tác phẩm “ Vợ nhặt” tác giả không chỉ thành công về nội dung mà còn thành công về nghệ thuật khi xây dựng được tình huống truyện độc đáo. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động có nhiều chi tiết đặc sắc, ngôn ngữ mộc mạc giản dị nhưng có sự chắt lọc kỹ lưỡng và giàu sức gợi kết hợp với nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng thể hiện tâm lí nhân vật tinh tế.

Nhà văn đã khắc họa thành công nhân vật Tràng và tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 và khẳng định ngay trên bờ vực cái chết vẫn luôn hướng về sự sống, tin tưởng ở tương lai, khát khao tổ ấm gia đình và yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Hình ảnh nhân vật Tràng sẽ sống mãi trong lòng người đọc.

Nhân vật Tràng trong Vợ nhặt - Mẫu 3

Kim Lân là một cây bút nằm trong danh sách những nhà văn viết truyện ngắn tài hoa của nền văn học đương đại Việt Nam. Ông thường viết về cuộc sống nông thôn và những người dân quê chất phác, giản dị nhưng chan chứa tình thương. "Vợ nhặt" là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc họa thành công nhân vật Tràng, một người lao động nghèo nhưng hiền lành, nhân hậu, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị và biết hướng tới tương lai tươi đẹp.

Trong truyện ngắn "Vợ nhặt", Kim Lân bộc lộ quan điểm nhân văn sâu sắc của mình. Tác giả tìm thấy vẻ đẹp kì diệu của người lao động giữa cảnh đói khổ cùng cực, trong mọi hoàn cảnh éo le họ vẫn vượt qua cái chết, tìm đến cuộc sống. Tiêu biểu trong đó chính là nhân vật Tràng của Kim Lân.

Tác giả đã mượn bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945 để khắc hoạ nổi bật lên hình tượng nhân vật Tràng. Những người năm đói được miêu tả với "khuôn mặt hốc hác u tối", "Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma", và "bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma". Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ "gào lên từng hồi thê thiết" cùng với "mùi gây của xác người" càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Không gian mà nhà văn Kim Lân xây dựng lên trong bối cảnh ấy thật khủng khiếp. Cả không gian dường như chỉ ảm đạm một màu u ám vì cái đói, cái chết, sự tang thương đang bủa vây. Tuy nhiên chính trong không gian u ám đến đáng sợ ấy, tác giả lại có thể vẽ lên một chuyện tình khá độc đáo. Đó là một mối tình táo bạo, dở khóc dở cười giữa Tràng và thị, một câu chuyện tình bắt đầu từ bốn bát bánh giữa một ngày đói. Đây được coi là tình huống truyện rất độc đáo, tưởng chừng như vô lý nhưng lại hợp lý vô cùng. Tình huống truyện này đã gợi ra một dòng tâm lí rất tinh tế ở mỗi nhân vật, đặc biệt là Tràng.

Anh cu Tràng ngốc nghếch, ngờ nghệch, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng niềm hạnh phúc quá lớn, lại đến quá đột ngột khiến Tràng rất đỗi bất ngờ "đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?". Đó là niềm hạnh phúc mà hắn và cả mẹ hắn hay tất cả người dân xóm ngụ cư đều coi là chỉ có trong cổ tích. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình - một niềm vui giản dị nhưng đẹp đẽ và đáng quý đến mức không gì có thể sánh nổi. Người thanh niên ấy chợt thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.

Nhắc đến vợ, chúng ta vẫn hiểu đó là người phụ nữ sẽ gắn bó với gia đình cả đời, là người phụ nữ được cưới hỏi đàng hoàng và là người được hết mực trân trọng, yêu thương. Vì vậy, dù người vợ là do Tràng "nhặt" về, chẳng có cưới xin, dạm ngõ, nhưng Tràng cũng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị. Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng, coi chuyện lấy thị và xây dựng hạnh phúc gia đình với thị là một điều nghiêm túc. Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói "đến thân còn chẳng lo nổi, lại còn đèo bòng". Tràng chậc lưỡi "kệ" cái đói, mua cho thị cái thúng con, vài xu dầu và dẫn thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình. Tràng hồi hộp chờ câu đồng ý chấp thuận của bà cụ Tứ. Tâm lý và suy nghĩ của Tràng được tác giả xây dựng theo một diễn biến rất hợp lý. Tràng đưa thị về làm vợ không phải xuất phát từ suy nghĩ bốc đồng của một anh chàng ngờ nghệch. Tràng cũng đã thoáng lo về cái đói, lo lắng bản thân mình phải đèo bòng. Nhưng vì niềm khao khát hạnh phúc gia đình quá lớn nên Tràng đã gạt bỏ hết những nỗi lo ấy để tiến tới tương lai.

Sau khi lấy vợ, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn không ngờ rằng bản thân đã có một gia đình. Hắn nghĩ ra viễn cảnh tương lai sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên người và cần phải có trách nhiệm với gia đình nhiều lắm. Một nguồn vui rạo rực bỗng dâng tràn trong lòng. "Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Chi tiết: "Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà" đã thể hiện sự thay đổi lớn trong chính con người Tràng, là một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng. Từ một chàng trai ngờ nghệch, vụng về, Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: "hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này".

Dường như câu chuyện đã có thể kết thúc tại thời điểm Tràng thực sự trưởng thành, nhận ra trách nhiệm của mình, nhưng với ngòi bút tài hoa của Kim Lân thì câu chuyện đã có một cái kết sâu sắc hơn. Câu kết truyện "Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu tích cực về một sự đổi thay trong xã hội, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Chi tiết này rất mới mẻ bởi những tác phẩm của nền văn học hiện thực vào thời điểm trước Cách mạng tháng Tám không thể nhìn thấy được. Đó là sự đổi thay và giác ngộ rất lớn trong tư tưởng cách mạng. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.

Có thể nói, Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo, là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ dù có những nét ngốc nghếch, ngờ nghệch nhưng tâm hồn vẫn đẹp như một viên ngọc sáng.

Vợ nhặt nhân vật Tràng - Mẫu 4

Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn về nông thôn, hình tượng người nông dân lao động. “Vợ nhặt” được sáng tác năm 1955 đã khắc họa rất thành công bức tranh của nạn đói lịch sử năm 1945. Ban đầu, truyện ngắn này có tên ban đầu là Xóm ngụ cư. Truyện ngắn này đã chạm đến trái tim của người đọc, khi miêu tả chân thực về cuộc sống của người dân giữa nạn đói khủng khiếp, người chết như ngả rạ; vừa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, ca ngợi tình yêu thương, vẻ đẹp người dân Việt Nam. Bên cạnh nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã khắc họa chi tiết, chân thực, đặc sắc diễn biến tâm trạng Tràng – con trai bà cụ Tứ. Phân tích nhân vật Tràng cho thấy dù trong hoàn cảnh cùng quẫn, đói khát, nhưng Tràng – đại diện cho người lao động nghèo vẫn khao khát tình yêu, hạnh phúc gia đình và lấp lánh niềm tin vào cuộc sống, tương lai phía trước.

Tràng là một người lao động nghèo khổ, hơi bất bình thường, lại có ngoại hình xấu xí “hai con mắt nhỏ tí, gà gà”, “lưng to bè như lưng gấu”, “hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú, vừa dữ tợn… Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ”. Anh sống ở xóm ngụ cư nuôi mẹ già. Anh làm công việc đẩy xe bò mướn để kiếm sống. Dù nghèo khổ nhưng anh vô cùng tốt bụng, rất mực yêu trẻ con, thường hay vui đùa với những đứa trẻ trong xóm. Cuộc sống lao động vất vả nghèo khổ đã hằn lên ngoại hình của hắn: “Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước…”. Dưới ngòi bút tả thực của Kim Lân, nhân vật Tràng hiện lên thật đáng thương, tội nghiệp đến thắt lòng.

Tâm trạng của Tràng biến đổi từ khi bỗng “nhặt” được vợ ngoài đường trong nạn đói 1945. Lần gặp đầu tiên, lời nói đùa của Tràng chứ không hề có tình ý với cô gái đẩy xe cùng mình. Bởi hắn chẳng bao giờ nghĩ một người nghèo như Tràng lại có vợ cả. Ấy thế mà “hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc đỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc”. Hắn hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, ni!…”. Ấy thế mà, người phụ nữ ra đẩy ra với hắn. Hôm sau gặp lại, hắn đãi người đàn bà ấy 4 bát bánh đúc và đồng ý theo hắn về làm vợ. Tâm trạng lúc đó của Tràng lúc đó “khiến hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm pha tầm phào đâu có hai bận thế mà thành vợ thành chồng”.

Diễn biến tâm trạng của Tràng diễn ra từ bất ngờ cho đến vui vẻ, hạnh phúc, nhưng không thiếu nỗi lo về phía trước. Ở lần gặp 2, khi bị người đàn bà ấy mắng, Tràng toét miệng cười và mời ăn dù mình cũng không dư giả gì. Hành động đó chứng tỏ Tràng là một người nông dân hiền lành, tốt bụng, thương người.

Đặc biệt khi người đàn bà quyết định theo mình về thì Tràng bắt đầu thấy lo vì phải lo thêm miệng ăn giữa thời buổi người chết ngoài đường như ngả rạ. Nhưng rồi anh tặc lưỡi “chậc, kệ”. Hành động của Tràng không phải bồng bột, thiếu suy nghĩ, sĩ diện, mà đó là thái độ dung cảm, biết chấp nhận hoàn cảnh và cháy lên sự khát khao hạnh phúc, yêu thương con người cùng cảnh ngộ như mình.

Tràng nghiêm túc với quyết định của mình. Hắn đưa người “vợ nhặt” lên chợ tỉnh mua đồ. Tràng rất chu đáo và quan tâm đến người đàn bà của mình. Thế mới thấy, trong lúc nghèo đói như vậy, tình người thật đáng quý.

Kim Lân đã thành công khi miêu tả tâm trạng của Tràng ở nhiều cung bậc cảm xúc. Trên đường về, vẻ mặt Tràng “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc” như thấy hãnh diện, hạnh phúc khi cưới được vợ giữa thời buổi khó khăn như thế này. Vì tâm trạng vui, hãnh diện nên Tràng mua dầu về thắp để khi vợ về đến nhà thì căn nhà trở nên sáng sủa.

Khi về đến nhà, Tràng “xăm xăm” dọn dẹp sơ qua, “ngượng nghịu” thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của người đàn bà. Sự chân thật của Tràng đến mộc mạc, khiến người đọc càng thêm thương cảm và dành sự cảm mến dành cho nhân vật này. Tràng cũng có cảm giác lo lắng vì sợ người đàn bà này thấy gia cảnh của mình sẽ bỏ đi. Bản than Tràng thấy “sờ sợ” vì hạnh phúc có thể rời bỏ mình đi.

Diễn biến tâm trạng của Tràng được mô tả chân thực khi diễn tả sự sốt ruột đợi bà cụ Tứ về để thưa chuyện. Tràng hiểu rằng cần phải xin phép ý kiến của mẹ, sợ mẹ không đồng ý. Điều này chứng tỏ Tràng là người con biết lễ nghĩa. Đặc biệt, khi bà cụ Tứ về, Tràng thưa chuyện một cách nghiêm túc, trịnh trọng. Khi nhận được sự đồng ý của mẹ, long Tràng thở phào nhẹ nhõm.

Kim Lân đã miêu tả tâm trạng thay đổi của Tràng qua việc miêu tả cảnh vật vào sáng hôm sau khi có vợ. Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà. “Bỗng vừa chợt nhận ra xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng…”. Tràng cảm thấy hạnh phúc khi thấy người mẹ đang lúi húi giẫy cỏ, vợ quét lại cái sân… Khuôn mặt Tràng tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” dù đêm hôm qua hắn nghe thấy “tiếng khóc tỉ tê”, “diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.

Từ những điều giản dị, nhưng tràn đầy hạnh phúc như vậy về cuộc sống gia đình, trong lòng Tràng bỗng dưng thấy rõ bổn phận, trách nhiệm trong gia đình để gây dựng tương lai. “Bỗng nhiên hắn cảm thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này …”.

Bữa ăn sáng hôm đó tuy trông thật thảm hại, chỉ có lưng bát cháo và món “chè đặc biệt” – đó chỉ là miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ, cảm thấy nỗi xót xa tủi hờn nhưng Tràng vẫn có niềm tin về phía trước “lá cờ đỏ bay phấp phới”.

Từ một người đàn ông thô kệch, Tràng đã thay đổi tâm trạng, suy nghĩ khi “nhặt” được vợ. Dường như Tràng quên đi những khó khăn hiện tại để có niềm tin sẽ vượt qua hướng đến tương lai tươi sáng hơn. Điều đó cho chúng ta thấy rõ, dù trong hoàn cảnh nào, đói kém có rình rập tính mạng, thì con người vẫn khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc của một gia đình, thậm chí còn bùng lên mãnh liệt hơn.

Kim Lân đã rất thành công khi miêu tả chi tiết diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng. Ông đã đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo, để nhân vật tự bộc lộ tâm trạng, tính cách một cách rõ nét, chân thực. Với nghệ thuật dẫn truyện sáng tạo, ngôn ngữ bình dị, gần gũi, ông đã chạm đến tâm khảm của người đọc, giúp họ đồng cảm với nhân vật, đồng thời lấy đi nước mắt về cuộc sống cơ cực của người dân lao động Việt Nam trong hoàn cảnh nạn đói lịch sự năm 1945. Nhân vật Tràng dù nghèo khổ nhưng tràn đầy ấm áp, yêu thương, niềm hy vọng, lạc quan vào cuộc sống, vào sự thay đổi xã hội. Đó cũng chính là giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi tới bạn đọc.

Nhân vật Tràng trong Vợ nhặt - Mẫu 5

Văn học chính là lăng kính chủ quan, phản ánh hiện thực một cách khách quan, chính xác nhất. Bởi vậy mà nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của mình để phác họa thành công bức tranh cuộc sống, sinh hoạt của người nông dân trong nạn đói năm Ất Dậu qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã đem vào thiên truyện của mình một điểm sáng mới, đó là niềm tin, niềm hi vọng vào một tương lai tốt đẹp dù hiện tại có khó khăn đến nhường nào.

Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, ngòi bút của ông thật sắc sảo khi tập trung miêu tả những phong tục tập quán và đời sống làng quê với những “thú vui đồng quê hay phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc được in trong tập “Con chó xấu xí” của nhà văn, viết về người nông dân trong tình cảnh thê thảm của nạn đói với bản chất tốt đẹp, lương thiện. Bằng khả năng sáng tạo của mình, nhà văn đã thành công ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và hàng loạt các biện pháp nghệ thuật đặc sắc khác khi xây dựng nhân vật của mình.

Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và người ra rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.

Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ Tràng nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người - thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.

Sự đói nghèo bần hàn, vây quanh lấy hắn, nhưng trong đầu hắn luôn hiện lên những suy nghĩ lạ lùng thỉnh thoảng lại thấy hắn ngửa mặt cười cười một cái gì đó. Tràng thật sự là một con người kỳ quái. Giữa khung cảnh nghèo đói, cùng cực ấy. Một con người xấu xí, thô kệch nghèo khổ như Tràng những tưởng vĩnh viễn phải sống kiếp cô độc vì chả có gì thu hút người khác thì làm sao mà lấy được vợ. Nhưng không ngờ Tràng vẫn lấy được vợ, mà con lấy được một cách dễ dàng “nhặt” được vợ như nhặt một cục đá mà thôi.

Chỉ bằng những câu nói bông đùa vu vơ, mà Tràng nhặt được vợ “Muốn ăn cơm trắng với giò, thì ra đây đẩy xe bò với anh nào” Chỉ có như thế thôi nhưng một cô gái ngoan ngoãn ra đẩy xe với hắn. Rồi theo hắn về nhà làm vợ. Tác giả Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện vô cùng thú vị, độc đáo làm thay đổi số phận của nhân vật Tràng. Làm cho câu chuyển sang một hướng rẽ mới thú vị và thu hút người đọc. Hành động nhặt được vợ của Tràng khiến người ta phải suy nghĩ, bởi việc lấy vợ lấy chồng là việc vô cùng quan trọng trong đời người, bình thường người ta phải làm thật cẩn thận suy tính trước sau. Cô gái làm vợ Tràng cũng thật thiệt thòi biết bao, làm vợ người ta mà không có một lễ cưới, không được làm dăm ba mâm ra mắt họ hàng, không có giấy đăng ký kết hôn, không có chứng nhận của hai bên họ hàng.

Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lý và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc khi lấy được vợ.

Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lý, nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lý, suy nghĩ của anh cu Tràng.

Bà đã chấp nhận người vợ nhặt của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.

Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình thế căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong chính nội tâm của mỗi nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”.

Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hoà lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng đầy xót thương. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi, chúng mày đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”.

Phân tích nhân vật Tràng - Mẫu 6

Tác giả Kim Lân là một nhà văn tiêu biểu cho nền văn học hiện đại của Việt Nam. Những tác phẩm của ông đều đi sâu vào đời sống của những người nông dân có hoàn cảnh éo le, khổ cực, bị cái nghèo, cái đói trong xã hội bủa vây. Thông qua những lời văn chân thành và mộc mạc của mình tác giả muốn tố cáo tội ác của giặc, của xã hội cũ, đề cao cuộc sống của con người.

Tác phẩm “Vợ nhặt” của tác giả được viết trong những năm 1945 khi mà nạn đói đang hoành hành tại miền Bắc nước ta làm chết 2 triệu đồng bào. Ngòi bút của ông hướng tới những người nông dân vì hoàn cảnh chiến tranh phải từ bỏ quê hương mình đi tản cư ở nơi khác. Những xóm làng mới tập hợp những người ngụ cư vì thế mà được hình thành. Từ mảnh đất mới này nhiều mảnh đời đã ghép lại với nhau trở thành những người thân, gắn bó thân thiết với nhau.

Vợ nhặt xoay quanh nhân vật Tràng một con người lao động chất phác, hiền lành, nhưng nghèo đói. Anh sống với một bà mẹ già yếu tại xóm ngụ cư toàn những cư dân mới từ khắp nơi đổ về đây. Ngày ngày Tràng làm nghề kéo xe bò chở hàng thuê cho người khác để kiếm ngày hai bữa. Cuộc sống mưu sinh vô cùng khốn khó, khiến anh không lấy nổi vợ, và chẳng cô nào muốn lấy anh bởi anh nghèo quá. Nhưng rồi một ngày tình cơ Tràng nhặt được một cô vợ xinh xắn.

Câu chuyện tưởng đùa mà hóa thật. Chỉ một câu nói bông đùa của Tràng với cô gái hoàn toàn xa lạ rằng “Muốn ăn cơm trắng với giò, thì lại đây đẩy xe bò với anh” chỉ một câu nói bông đùa vu vơ như vậy mà Trang đã nhặt được vợ. Cô gái không có người thân thích, sống bơ vơ một mình ngoan ngoãn ra đẩy xe cho anh rồi theo anh về nhà chung sống đời sống vợ chồng. Không có một đám cưới, không có một bữa tiệc ra mắt gia đình hai bên, không có giấy đăng ký kết hôn được chính quyền xác nhận. Họ đã thành vợ thành chồng như thế, đơn giản, mộc mạc.

Qua những lời văn đầy cảm động của mình nhà văn Kim Lân muốn thể hiện sự xót xa cảm thông của mình với những con người thiệt thòi, bất hạnh. Chuyện hệ trọng trăm năm mới có một lần nhưng trong hoàn cảnh đất nước quá nghèo khó, giặc giã triền miên nên tất cả đều phải làm qua loa đại khái.

Nhân vật Tràng chính là nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm, thông qua nhân vật Tràng tác giả miêu tả những diễn biến tâm lý của nhân vật này từ những trạng thái này đến trạng thái khác. Tràng nghèo khổ, làm công việc nặng nhọc, gia cảnh thì mẹ góa con côi. Trang xuất hiện băng vài chi tiết “hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào trong bến… hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra…bộ mặt thô kệch …”

Thông qua những chi tiết miêu tả về ngoại hình tính cách của Tràng khiến cho người đọc cảm nhận được Tràng là người xấu xí về ngoại hình, thô kệch về vóc dáng và là người có suy nghĩ khác người, không phải là người có học thức, ít nho nhã. Hắn nghèo, gia đình thì chẳng có của ăn của để nào của ông cha đời trước. Hoàn cảnh gia đình thì éo le, chỉ có hai mẹ con nương tựa vào nhau. Phải nói là Tràng đã nghèo lại còn xấu, không văn hay chữ tốt một người đàn ông như vậy làm sao mà có nổi vợ trong thời kỳ đất nước thái bình, không có chiến tranh, chạy loạn thì chắc chắn Tràng ế vợ cả đời.

Hình ảnh của Trang khiến cho người ta liên tưởng tới nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Nhưng Tràng có ưu điểm hơn Chí Phèo ở chỗ dù cuộc sống nhiều khó khăn, vất vả nhưng Tràng vẫn lao động kiếm miếng ăn từ mồ hôi công sức mình bỏ ra. Không như Chí Phèo làm cái nghề ai cũng coi thường mình là “Rạch mặt ăn vạ”

Người đọc có thể cảm nhận được một điểm chung của hai người đàn ông này là họ đều rất cô quạnh, bị xã hội nghèo đói xô đẩy. Cuộc sống khốn khổ đã khiến họ trở thành những con người khô cằn chai sần về mặt cảm xúc của con người.

Tuy nhiên, trong tác phẩm của mình, trong bối cảnh éo le, bần cùng đó Kim Lân đã mở ra những tình huống truyện tươi sáng, có lối thoát và có những mầm hy vọng mới cho người nông dân Việt Nam thời đó. Không như trong tác phẩm của Nam Cao số phận của người nông dân thường vô cùng bế tắc, cùng cực và có kết thúc bi thảm làm người đọc nghẹn lời.

Trong tác phẩm “Vợ nhặt” của mình giữa thời kỳ đói khổ, tranh tối tranh sáng đó những con người bần cùng, xấu xí, thô kệch như nhân vật Tràng lại lấy được vợ mà chẳng tốn một đồng xu nào, chẳng phải mất thời gian tán tỉnh, cưa cẩm,…Anh ta có được vợ như nhặt một viên sỏi ngoài đường mang về.

Tình huống nhặt được vợ của nhân vật Tràng là tình huống truyện vô cùng đắt giá, nó là cho câu chuyện của Kim Lân trở nên có sức sống thu thu hút người đọc. Và tạo niềm tin sống cho những con người khốn khổ.

Chính những nghèo khó, cơ cực đã đẩy những con người cô đơn xích lại gần nhau gắn bó với nhau tạo thành những tổ ấm mới, xây dựng tương lai trong hoàn cảnh bần cùng của mình

Tác giả đã vô cùng tinh tế khi miêu tả diễn biến tâm lý Trang thay đổi trước và sau khi nhặt được vợ.”Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”.

Khi có vợ rồi Tràng trở nên hiền lành, dễ thương hơn, hắn vui vẻ phởn phơ khác ngày thường. Khi nhìn thấy bóng dáng người đàn bà vợ của hắn ngồi giữa nhà hắn còn chưa tỉnh cơn mà, cứ tưởng nằm mơ “ngờ ngợ như không phải thế. Ra là hắn đã có vợ rồi đấy ư”. Sự thật là hắn đã có vợ dễ dàng thế sao, đến chính hắn người trong cuộc mà còn chẳng thể nào tin đó là sự thật, thì người ngoài đúng là khó lòng mà tin nổi. Nhưng rồi hắn thấy lâng lâng trong lòng, cảm thấy có một nguồn sinh khí mới thổi vào trong tâm hồn héo úa bao nhiêu ngày tháng của mình. Hắn cười và cảm thấy ngập tràn cảm giác mới mẻ.

Người vợ của Tràng cũng thế, cô nàng không có một cái tên nên cứ tạm gọi tên là thị. Trước khi làm vợ Tràng, nhân vật Thị cong cớn, có chút chua ngoa của một người phụ nữ trải qua nhiều khốn khổ, nhiều thăng trầm trong cuộc sống. Thị có chút bất cần, chút liều lĩnh, bởi nếu không bất cần, liều lĩnh thì Thị sẽ không vì một câu nói bông đùa mà theo không một người đàn ông về nhà làm vợ như thế. Nhưng có lẽ cuộc sống của Thị cũng rất đáng thương, sự nghèo đói, cô đơn của xã hội lúc đó khiến Thị không có sự lựa chọn. Nên thị theo Tràng về làm vợ người ta dù không có một tiệc cưới, một mâm cơm ra mắt họ hàng, không nhẫn cầu hôn, không đăng ký. Sự nghèo đói cô đơn đã tước đi của thị quá nhiều sự ưu ái mà bất kỳ một người con gái nào khi theo chồng đều muốn có và cần có.

Duyên trời đã định đã xô đẩy những con người nghèo khổ đến với nhau. Bữa cơm đầu tiên sau đêm thành vợ thành chồng của Tràng và cô gái lạ cũng khiến người đọc phải rơi nước mắt. Một bữa cơm quá giản dị nó chỉ là một nồi cháo cám, đắng chát trong mồm, nhưng hắn vẫn ăn ngon lành tâm trạng hắn phấn khởi lắm

Người phụ nữ làm vợ hắn cũng dịu dàng đoan trang hơn rất nhiều, hai mảnh đời ghép lại với nhau để cùng hướng tới một tương lai tươi sáng. Hình ảnh kết thúc chuyện là lá cờ Việt Minh cướp kho thóc Nhật chia cho dân nghèo, là con đường ánh sáng, niềm tin vào tương lai mới cho những số phận người nông dân nghèo khổ.

Bằng ngòi bút chân thực, mộc mạc, giản dị, tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn tác giả Kim Lân đã khắc họa thành công nhân vật Tràng. Qua tác phẩm người đọc thấy được tinh thần nhân văn của tác giả trước những số phận người nông dân nghèo khó.

Phân tích nhân vật Tràng - Mẫu 7

Kim Lân là một cây bút truyện ngắn danh tiếng của văn học Việt Nam hiện đại. Là con lẽ của một gia đình ở làng Phù Lưu, chỉ được học hết bậc tiểu học. Trước cách mạng tháng Tám bản thân Kim Lân đã nhiều năm sống lăn lóc trong cảnh đói nghèo. Ông chính là nhà văn của những số phận thiệt thòi, những kiếp người cùng khổ, của làng quê Việt Nam giữa thế kỉ XX.

Sự nghiệp của Kim Lân không đồ sộ nhưng rất khó trộn lẫn vì mang những nét đặc sắc riêng. Tuy học vấn theo kiểu trường lớp của ông không nhiều nhưng tài năng văn học thiên phú của ông cũng được khẳng định. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét: chỉ với ba truyện ngắn Vợ nhặt, Làng, Con chó xấu xí Kim Lân đã có thể đàng hoàng ngồi vào chiếu trên trong làng văn học Việt nam. Truyện ngắn Vợ nhặt được sáng tác năm 1954 với tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư viết năm 1945. Viết về cái đói nhưng thể hiện niềm tin vào cuộc sống và tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau giữa cảnh đói khát.

Tràng xuất hiện ngay từ đầu truyện ngắn với dáng vẻ thô kệch, vụng về của một anh chàng xấu trai và hơi dở tính với "khuôn mặt thô kệch, đôi mắt gà gà đắm vào bóng chiều". Sự ám ảnh của cái đói đã hiện rõ trong mỗi buổi chiều về khi Tràng không còn vừa đi vừa ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch nữa, bây giờ hắn đi từng bước " mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước".

Thực ra ban đầu Tràng chẳng chủ tâm đưa tình với cô nào trong đám con gái bên đường hôm ấy. Chẳng ngờ, chỉ một câu nói hò vui cho đỡ nhọc mà thị lon ton đến đẩy xe bò cho anh và đòi trả công. Thấy người đàn bà đói, Tràng cũng hào phóng mời thị ăn rồi ngỏ ý mời về cùng. Thoạt nhìn, việc mời một người đàn bà xa lạ ăn bốn bát bánh đúc ngay khi bản thân mình đang đói khổ là một việc khá liều lĩnh nhưng cũng có thể nó xuất phát từ tấm lòng nhân hậu, một tính cách hào hiệp và sâu xa việc Tràng có vợ trước hết là vì lòng thương nhân hậu đối với một con người đồng cảnh ngộ thậm chí còn đói khát hơn mình song Tràng cũng khát vọng âm thầm về một tổ ấm gia đình.

Lấy nhau không phải vì tình yêu mà là bốn bát bánh đúc với mấy câu nói đùa nhưng không vì thế mà Tràng coi thường thị. "Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê". Tràng hoàn toàn ý thức được việc mình nghèo khổ, biết có nuôi nổi cái thân mình hay không, nhưng rồi sau cái tặc lưỡi là một quyết định bất chấp tất cả để có cuộc sống lứa đôi, một mái ấm gia đình.

Niềm khát khao hạnh phúc ấy nó lớn hơn cái nỗi sợ hãi về cái đói và cái chết " trong một lúc Tràng quên tất cả cuộc sống ê chề tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa giữa người đàn bà đi bên". Những câu nói tha thiết, chân thực của tác giả đã gieo vào lòng người đọc niềm cảm xúc sâu xa, đói khát không thể làm giảm đi giá trị của tình người.

Từ khi có vợ tâm trạng của tràng thay đổi hẳn. Trên đường về nhà, hiện ra khuôn mặt phớn phở khác thường và nụ cười tủm tỉm trên môi Tràng. Điều khác lạ trong thái độ của Tràng thay đổi với đám trẻ con vốn quen suồng sã với anh ta. Sự kiện tạo ra sự tò mò ngạc nhiên từ trẻ con đến người lớn. Niềm vui nho nhỏ lóe lên trong cuộc sống tăm tối đói khát nghèo khổ nhanh chóng bị nỗi lo thường trực về cái đói và cái chết lấn át.

Hạnh phúc thành hình trên nền cuộc sống tột cùng bi kịch, khi sự sống bị dồn vào ngõ cụt không lối thoát. Con đường duyên phận thành con đường rước thêm cái của nợ đời khiến những người biết nghĩ đều phải thở dài ái ngại. Việc Tràng có vợ có lẽ là giấc mơ đẹp nhất của cuộc đời anh. Đó cũng là cảm xúc rất tự nhiên và chân thật của một con người đang sống choáng ngợp trước hạnh phúc và bất ngờ lớn lao đã đến.

Con đường về nhà Tràng là sự thay đổi trong tâm lí nhân vật: Sự thật quá lớn lao vượt qua suy nghĩ mơ ước của một anh chàng nghèo khổ, xấu xí khiến Tràng không nhận biết hoàn cảnh giống mọi người, Choáng ngợp tâm trí Tràng lúc này là hạnh phúc của riêng anh.

................

Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích nhân vật Tràng

Chia sẻ bởi: 👨 Bảo Ngọc
86
  • Lượt tải: 7.225
  • Lượt xem: 1.091.812
  • Dung lượng: 802,7 KB
Sắp xếp theo