2
Đối với giáo dục đại học, hiện có 65 cơ sở giáo dục đại học ngoài công
lập với tổng số 244 nghìn sinh viên, chiếm 13,8% tổng số sinh viên cả nước; đã
có 5 cơ sở giáo dục đại học nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, đào tạo trên 5
nghìn sinh viên mỗi năm. Các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thực hiện trên
500 chương trình hợp tác và liên kết đào tạo với hơn 200 cơ sở giáo dục đại học
nước ngoài.
Đối với giáo dục nghề nghiệp, đến hết năm 2018, cả nước có 1.948 cơ sở
giáo dục nghề nghiệp (gồm: 397 trường cao đẳng, 519 trường trung cấp, 1.032
trung tâm giáo dục nghề nghiệp), trong đó có 677 cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư
thục và cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 34,7%)
Sự phát triển của các cơ sở giáo dục đào tạo ngoài công lập từ nguồn lực
của xã hội đã góp phần thúc đẩy việc áp dụng những cách tiếp cận giáo dục tiên
tiến của thế giới, nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng được yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, việc huy động các nguồn lực
của xã hội cho giáo dục và đào tạo trong thực tiễn thời gian qua vẫn còn khiêm
tốn, hạn chế:
- Tổng các nguồn lực của xã hội thu hút vào khối ngoài công lập còn rất
thấp so với tiềm năng. Hiện mới có trên 3.200 dự án đầu tư theo định hướng xã
hội hóa trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo với số vốn đăng ký trên 53.000 tỷ
đồng. Các nguồn lực của xã hội huy động chủ yếu từ các cá nhân thông qua học
phí và đóng góp thiện nguyện, chưa huy động được sự tham gia rộng rãi, đóng
góp tích cực của các tổ chức, doanh nghiệp và đội ngũ trí thức Việt kiều.
- Việc thu hút các nguồn lực của xã hội vào các cơ sở giáo dục và đào tạo
công lập tiến triển chậm. Mặc dù đã có nhiều chủ trương, chính sách theo hướng
tăng cường tự chủ và trách nhiệm giải trình (nhất là về tài chính) của các cơ sở
công lập; tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục thông qua các chính sách ưu đãi
về thuế, đất đai, tín dụng… nhưng việc thực hiện cơ chế tự chủ mới bước đầu
triển khai ở lĩnh vực giáo dục đại học; hoạt động đầu tư, hợp tác của khối tư nhân
với các cơ sở giáo dục công lập thông qua các hình thức liên kết, hợp tác kinh
doanh, đối tác công - tư… còn đơn lẻ, không tạo sự đột phá trong toàn hệ thống.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, tồn tại nói trên trước hết thuộc
về nhận thức của các cấp quản lý, của người học và xã hội. Còn phổ biến tâm lý
coi trọng, tin tưởng trường công hơn trường tư; tâm lý trông chờ, ỷ lại vào ngân
sách nhà nước cấp vẫn còn phổ biến; việc triển khai, thực hiện chủ trương xã hội
hóa của các cấp chính quyền, các ngành chưa quyết liệt, thường xuyên và bài bản,
trong đó vấn đề quy hoạch phát triển chung của hệ thống giáo dục (bao gồm cả
công lập và ngoài công lập) chưa bảo đảm nguyên tắc cân đối cung cầu trong dài
hạn; công tác phổ biến, tuyên truyền, hướng dẫn chưa được chú trọng đúng mức.