Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học hoặc một tác phẩm nghệ thuật Văn mẫu lớp 11 Chân trời sáng tạo

Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học hoặc một tác phẩm nghệ thuật bao gồm gợi ý cách viết kèm theo 4 mẫu khác nhau cực hay. Qua bài văn nghị luận phân tích giá trị đặc sắc của một truyện thơ hoặc một bài hát yêu thích gợi mở cho học sinh những ý mới, ý hay, ý đẹp khi làm văn, giúp cho các em có thêm vốn từ phong phú khi diễn đạt.

TOP 4 mẫu nghị luận phân tích giá trị đặc sắc của một truyện thơ hoặc một bài hát yêu thích cực hay dưới đây được biên soạn rất dễ hiểu, gồm cả mẫu ngắn gọn và đầy đủ để các bạn tham khảo. Ngoài ra các bạn xem thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 11 Chân trời sáng tạo.

Đề bài: Viết một bài văn nghị luận phân tích giá trị đặc sắc của một truyện thơ hoặc một bài hát yêu thích

1. Dàn ý nghị luận về một tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật

I. Mở bài

- Khái quát vị trí của tác phẩm của tác giả nào, nằm trong tập thơ, thời kỳ nào.

- Tóm tắt khái quát nội dung chính của đoạn thơ, bài thơ.

- Nêu lên vấn đề cần bàn luận (Có thể là giá trị mà tác phẩm đem lại là gì?).

II. Thân bài

- Tóm tắt thông tin về tác giả (vị trí, phong cách sáng tác)

- Tóm tắt tác phẩm (xuất xứ, hoàn cảnh). Khái quát vị trí của tác phẩm nằm trong giai đoạn nào của lịch sử, đặc trưng của thời kỳ đó, bối cảnh lịch sử có ảnh hưởng đến bài thơ, đoạn thơ hay không.

- Trích dẫn một phần hoặc toàn bộ văn bản.

- Làm rõ nội dung:hình ảnh thơ, từ ngữ đặc biệt, làm rõ nghệ thuật, dụng ý của tác giả, thể thơ, giọng điệu, biện pháp tu từ,…

- Liên hệ mở rộng

- Đánh giá chung về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.

- Thông điệp của tác giả

III. Kết bài

- Đưa ra đánh giá về giá trị tác phẩm trong giai đoạn văn học. Liệu tác phẩm có còn giá trị cho đến ngày nay hay không?

- Cảm xúc, nhận xét của bản thân về bài thơ, đoạn thơ.

2. Phân tích giá trị đặc sắc của bài Ngư Tiều y thuật vấn đáp

Phạm Văn Đồng từng đặt tựa cho tác phẩm của mình: “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” để ca ngợi ngòi bút của nhà thơ “lớn nhất miền Nam Việt Nam”. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà giáo tâm huyết, bác sĩ danh tiếng và nhà thơ được mến mộ trong dân tộc. Ông tỏa sáng trong văn học Việt Nam. Dù không khám phá khía cạnh mới, nhưng trong tình hình loạn lạc, ông có tầm ảnh hưởng to lớn. Ông truyền cảm hứng và sức mạnh cho nhân dân, là nguồn động lực để họ theo đuổi độc lập và tự do. Thơ của Nguyễn Đình Chiểu đậm nét văn hóa Nam Bộ, dễ nghe, đọc và hiểu. Ông đại diện cho nhân dân, phê phán chính quyền, và tỏa sáng với cái tôi kiên định. Kinh nghiệm khó khăn và sự mất mát quê hương thúc đẩy ông viết văn mạnh mẽ, thể hiện lòng hiếu trung với đất nước.

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, ông đã để lại cho chúng ta một tập thơ đầy ý nghĩa và tinh thần. Trong số những tác phẩm xuất sắc của ông, bài "Ngư tiều Y thuật vấn đáp" đứng là một bức tranh tài hoa của sự tỉ mỉ, sâu sắc và tình cảm. Bài thơ này không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời mà còn mang giá trị đặc sắc về mặt văn hóa, lịch sử và nhân văn.

"Ngư tiều Y thuật vấn đáp" là sự minh chứng cho tinh thần y đức và nhân văn của Nguyễn Đình Chiểu. Bài thơ thể hiện lòng tri ân và biết ơn của tác giả đối với các bậc tiền bối y học đã cống hiến cho sự phục vụ và chăm sóc sức khỏe của con người. Từng câu thơ ngọt ngào và chân thành, ông tôn vinh những giá trị cao quý của nghề y và sự hy sinh của các bác sĩ. Bài thơ cũng truyền tải thông điệp về tình người, khuyên nhân loại phải biết quý trọng và tôn trọng những người đang làm việc vì lợi ích chung. Bên cạnh đó, tác phẩm còn có giá trị lịch sử quan trọng. Tác phẩm này được viết vào thời kỳ cuối đế quốc Nguyễn, khi đất nước đang chìm trong cảnh loạn lạc và thống trị bởi đế quốc Pháp. Nguyễn Đình Chiểu sử dụng nghệ thuật thơ ca để truyền đạt thông điệp của sự tự hào dân tộc và mong muốn giành lại độc lập cho quê hương. Bài thơ tạo nên một cảm xúc chung của sự đau đớn và hy vọng, làm dấy lên lòng yêu nước và khát vọng tự do của người đọc.

Bằng việc sử dụng ngôn ngữ tinh tế và hài hòa, tạo nên một dòng thơ trữ tình và duyên dáng. Bài thơ vẫn giữ được sự độc đáo và đặc trưng của văn hóa Nam Bộ, với những cung bậc cảm xúc sâu lắng và tình cảm chân thành. "Ngư tiều Y thuật vấn đáp" cũng thể hiện sự tinh tế và khéo léo trong cách sắp đặt câu chữ và điệu thơ. Nguyễn Đình Chiểu sử dụng hình ảnh tường thuật, biến tấu và những từ ngữ sắc sảo để tạo nên một thế giới văn học sống động và hấp dẫn. Bài thơ không chỉ là một cuộc trò chuyện giữa bác sĩ và bệnh nhân, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật tinh tế, gợi lên trí tưởng tượng và khám phá sự sâu sắc của con người.

Tác phẩm "Ngư tiều Y thuật vấn đáp" của Nguyễn Đình Chiểu mang trong mình giá trị đặc sắc từ các khía cạnh văn hóa, lịch sử và nhân văn. Từ sự tôn trọng đối với nghề y và lòng tri ân đối với những người làm việc vì lợi ích cộng đồng, đến thông điệp về tình yêu nước và khát vọng tự do, bài thơ đã góp phần làm tăng thêm niềm tự hào dân tộc và truyền cảm hứng cho người đọc. Sự tinh tế trong ngôn ngữ và cách sắp đặt câu chữ cũng làm nổi bật giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

3. Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (bài hát)

Được sáng tác vào năm 1960, "Việt Nam quê hương tôi" không chỉ là một bản tình ca cách mạng nổi tiếng mà còn là một tác phẩm tiêu biểu của Đỗ Nhuận. Bài hát này đã giúp ông nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vào năm 1996, khẳng định sự tài năng và đóng góp của nhạc sĩ Đỗ Nhuận trong lĩnh vực âm nhạc.

"Việt Nam quê hương tôi" mang trong mình thông điệp về tình yêu và tự hào dành cho quê hương Việt Nam. Bài hát tả hình ảnh đất nước Việt Nam với những cảnh đẹp thiên nhiên, con người và văn hóa đặc sắc. Từng câu chữ, từng giai điệu trong bài hát mang đến cho người nghe cảm giác tự hào và yêu mến quê hương.

Bạn ơi hãy đến quê hương chúng tôi
Ngắm mặt biển xanh xa tít chân trời
Nghe sóng vỗ dạt dào biển cả
Vút phi lao gió thổi bên bờ
Buồm vươn cánh vượt sóng ra ngoài khơi
Trong nắng hồng bừng lên sáng ngời ...

Đó là đoạn mở đầu trong ca khúc Việt Nam quê hương tôi của nhạc sỹ Đỗ Nhuận. Ông viết bài hát này cách đây hơn bốn mươi năm – với những hình ảnh, những giai điệu mà trước kia không ít người, trong đó có tôi đã có lúc hoài nghi: những sáng tác văn học nghệ thuật nói chung trong những năm tháng đất nước phải đối mặt với cái chết sẽ không thể thanh bình và thơ mộng đến nhường ấy.

Thế nhưng, khi bài hát vang lên, Tổ quốc bỗng trải ra giản dị, chân thực và thanh bình đến làm ta muốn khóc. Có lẽ dân tộc Việt Nam, một dân tộc đã phải triền miên đi qua những cuộc chiến tranh với bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu máu chảy và bao nhiêu ly biệt mới có thể mơ về một điều giản dị đến cháy lòng: Sự thanh bình.

Nơi đó vẫn là những cánh đồng ngũ cốc ấy, những cái cây ấy, những dòng sông ấy, những mái nhà ấy, những ngọn lửa ấy và những con người ấy nhưng được hòa đồng trong một đời sống không bệnh tật, không đói rét, không thù hận, không áp bức, không giam cầm và không chiến tranh. Chính bởi vậy mà Tổ quốc trong giai điệu và trong những hình ảnh của Đỗ Nhuận hiện ra đẹp và thanh bình tựa một Thiên đường có thật.

Nhạc sỹ Đỗ Nhuận như “một người được chọn” trong lúc đó để gửi đi thông điệp về dân tộc mình tới mọi con người trên thế gian. Đấy là Tổ quốc tôi, một xứ sở của những vẻ đẹp thiên nhiên ban tặng và luôn mơ ước về sự thanh bình.

Có thể mọi cảm xúc ấy do bài hát mang lại. Có thể giai điệu và hình ảnh của bài hát đã chạm vào người nghe chỉ một lần, đánh thức tâm hồn người nghe, để rồi tâm hồn ta cứ thế được mở ra. Bởi đó cũng chính là khát vọng của ta, là giấc mơ của chúng ta về xứ sở mình. Khát vọng ấy, giấc mơ ấy cũng chính là của mỗi cá nhân về thế gian này.

Đấy là Tổ quốc tôi: Việt Nam yêu dấu thanh thanh lũy tre, suối đổ về sông qua những nương chè, có rừng dừa xanh xa tít chân trời, mía ngọt chè xanh bông trắng lưng đồi, đồng xanh lúa rập rờn biển cả, tiếng ai ru con ngủ ru hời…

Tất cả những hình ảnh thân thuộc, giản dị tới mức tưởng như là “tự nhiên vốn có”, thế nhưng lại là ước mơ cháy bỏng mà mọi dân tộc muốn đi tới. Và biết bao dân tộc đã phải đi trên những con đường máu để đến với miền đất của những điều thân thuộc, giản dị nhưng vô cùng thiêng liêng ấy. Dân tộc Việt Nam là một ví dụ như thế.

Một xứ sở thanh bình là khát vọng lớn hơn tất thảy nhưng cũng thật giản dị, nhỏ bé tồn tại sâu thẳm trong con người nhạc sỹ, trong mỗi con người Việt Nam, trong mỗi dân tộc trên thế giới. Dân tộc Việt Nam hiểu được điều đó và đã chiến đấu cho điều đó.

Bên cạnh đó, "Việt Nam quê hương tôi" còn là một tác phẩm mang tính chất cách mạng, thể hiện lòng yêu nước và ý chí đấu tranh của người dân Việt Nam trong cuộc sống và lịch sử. Bài hát đã trở thành biểu tượng của sự đoàn kết và khát vọng tự do của dân tộc.

Cho đến bây giờ, mỗi người Việt Nam vẫn tiếp tục chiến đấu cho sự thanh bình của xứ sở mình. Cuộc chiến đấu thứ nhất cho sự thanh bình là cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Cuộc chiến đấu thứ hai cho sự thanh bình là cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo, lạc hậu, chống lại những tư tưởng độc tài, chống lại sự bất công…

Cuộc chiến đấu của loài người chống lại đói nghèo, lạc hậu, chống lại độc tài và bất công… là cuộc chiến đấu dài lâu, bền bỉ. Có thể những người Việt Nam lúc này như bạn, như tôi - đang chiến đấu cho một thế giới như thế, nhưng sẽ không được chứng kiến tận mắt. Nhưng con người đã nhìn thấy ở đâu đấy và sẽ nhìn thấy cuộc sống mơ ước. Khi một người nghĩ đến sự thanh bình và đấu tranh cho nó thì sự thanh bình đã có ở trong con người đó. Và tôi đã nghe Việt Nam quê hương tôi với cảm xúc như thế, giấc mơ như thế!

4. Viết văn bản nghị luận về tác phẩm Lục Vân Tiên

Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, bên cạnh những tác phẩm thơ văn nổi tiếng của cụ Nguyễn Đình Chiểu như: Ngư tiều y thuật vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh… thì truyện thơ Lục Vân Tiên là một tác phẩm lớn của nền văn học Việt Nam, có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa dân gian các tỉnh phía Nam.

Đây là tác phẩm được cụ Đồ Chiểu viết trước khi Pháp xâm lược đất nước ta. Tác phẩm có tổng 2.075 câu thơ với hình thức truyện kể văn vần (hay còn gọi là truyện thơ) cùng nhiều hình tượng nghệ thuật đẹp trong văn chương đã được nhân dân đón nhận, yêu thích. Trong đó, nhân vật nam chính của tác phẩm là người hết mực hiếu thảo, nêu cao lý tưởng, dũng cảm đánh cướp Phong Lai cứu dân, đánh giặc Ô Qua cứu nước. Nhân vật nữ chính Kiều Nguyệt Nga, là cô gái thủy chung son sắt với Lục Vân Tiên theo quan điểm lấy chữ nghĩa làm gốc. Các nhà nghiên cứu nhận định, tác phẩm có sức sống rất lớn trong đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Việt Nam, nhất là người dân Nam Bộ.

Tác phẩm Lục Vân Tiên đã thể hiện tư tưởng của cụ Nguyễn Đình Chiểu. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm không chỉ là gửi gắm niềm khát vọng, lý tưởng sống, mục đích sống, ý chí sống to lớn của cụ Nguyễn Đình Chiểu mà còn phản ánh cuộc đời của cụ. Thông qua các tuyến nhân vật, cụ đã phê phán mạnh mẽ những xấu xa của xã hội.

Những câu thơ quen thuộc trong tác phẩm Lục Vân Tiên đã đi vào lòng nhiều thế hệ như: “Trước đèn xem chuyện Tây Minh/ Gẫm cười hai chữ “nhân tình” éo le/ Hỡi ai, lẳng lặng mà nghe/ Dữ răn việc trước, lành dè thân sau/ Trai thì trung hiếu làm đầu/ Gái thì tiết hạnh làm câu trau mình…”.

Tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên là một tác phẩm độc đáo “có một không hai” trong số những truyện thơ ở Việt Nam. Cụ đã tiếp thu được những tinh hoa của văn hóa dân gian từ cách cảm, cách nghĩ đến lời ăn tiếng nói của người dân lao động nên khi chuyển tải vào tác phẩm Lục Vân Tiên, tác phẩm đã trở nên gần gũi với dân gian và sớm được nhân dân khai thác như nguồn chất liệu cho dân ca.

Tác phẩm Lục Vân Tiên không chỉ được xuất bản ở nhiều giai đoạn, mà còn được đưa vào dưới dạng đờn ca tài tử, với hình thức “ca ra bộ” đầu tiên của hình thức đờn ca tài tử, là một bước đệm để xây dựng nghệ thuật sân khấu cải lương. Đặc biệt, từ tác phẩm Lục Vân Tiên đã cho ra đời loại hình diễn xướng Nói thơ Vân Tiên.

Hình thức diễn xướng Nói thơ Vân Tiên trên vùng đất Bến Tre đã lan tỏa và có mặt trong một không gian rộng lớn cho thấy rằng, tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên có một giá trị rất sâu sắc trong đời sống cộng đồng. “Nói thơ Vân Tiên” hiện vẫn còn được lưu giữ trong ký ức của nhiều người lớn tuổi và được truyền dạy cho các thế hệ trẻ về sau.

Thế hệ trẻ sẽ tiếp tục gìn giữ, kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của Bến Tre, trong đó, cần phát huy loại hình diễn xướng Nói thơ Vân Tiên phù hợp với điều kiện hiện nay như: trong sinh hoạt đoàn thể, trong giao lưu, trong các cuộc thi diễn…

Để tuyên truyền về các tác phẩm thơ văn của cụ Đồ Chiểu, nhất là truyện thơ Lục Vân Tiên, Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh nhiều tỉnh thành trên cả nước đã nhiều năm tổ chức Liên hoan Đờn ca tài tử và Hội thi hóa trang Lục Vân Tiên - Kiều Nguyệt Nga. Trong đó, có trình diễn lại truyện thơ Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã có những định hướng về nội dung này. Bên cạnh những hoạt động nghiên cứu, dự kiến sẽ có lớp tập huấn cho các đối tượng như: học sinh, sinh viên, công nhân, viên chức, lao động, hướng dẫn viên và những người hoạt động trong hoạt động du lịch…

Truyện thơ Lục Vân Tiên đã trở thành tác phẩm quen thuộc trong các tầng lớp nhân dân cả xưa và nay, có thể ít người nhớ hết trọn vẹn truyện thơ nhưng các tuyến nhân vật như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga… đã đi sâu vào tâm thức của nhiều thế hệ, và nhiều người vẫn nhớ vài đoạn thơ trong số ấy: “Nhớ câu kiến ngãi bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng...”.

5. Viết văn bản nghị luận về bài hát Đất nước trọn niềm vui

Cứ mỗi dịp kỷ niệm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trên các phương tiện thông tin đại chúng lại vang lên những giai điệu trầm hùng của những bài ca bất hủ đã truyền lửa đến trái tim người nghe nhiều thế hệ. Mỗi khúc ca mang một câu chuyện gắn liền với lịch sử, để qua những giai điệu đó, thế hệ sau này hiểu rõ hơn giá trị của một chiến thắng đã làm nên một Việt Nam của thời đại mới. Trong đó, có “Đất nước trọn niềm vui” của nhạc sĩ Hoàng Hà.

Bài hát “Đất nước trọn niềm vui” được nhạc sĩ Hoàng Hà sáng tác vào đêm 26/4/1975 tại nhà riêng ở Hà Nội. Nhạc sĩ Hoàng Hà từng kể, từ giữa tháng 4/1975, không khí Hà Nội rất sôi động. Tình hình chiến sự được người dân theo dõi từng giờ, từng phút. Nhiều hôm, ông không về nhà mà ở lại cơ quan - Đài Tiếng nói Việt Nam để tiếp cận với tin tức nhanh hơn, đầy đủ hơn. Không khí Hà Nội trong thời điểm lịch sử vào những ngày đó hừng hực một quyết tâm, một niềm tin tất thắng.

Khi nghe tin quân ta đang thẳng tiến về Sài Gòn, nhạc sĩ đã dâng trào cảm xúc để viết nên những giai điệu đầy cảm xúc, thể hiện niềm hạnh phúc vô biên về một ngày vui của dân tộc đang đến rất gần: “Hội toàn thắng náo nức đất nước/ Ta muốn bay lên say ngắm sông núi hiên ngang/ Ta muốn reo vang hát ca muôn đời Việt Nam/ Tổ quốc anh hùng”.

Ca khúc “Đất nước trọn niềm vui” được Nghệ sĩ Nhân dân Trung Kiên thể hiện trên Đài Tiếng nói Việt Nam đúng sáng 30/4. Dù được sáng tác trong một thời gian ngắn, dù nhạc sĩ không có mặt ở Sài Gòn vào thời khắc lịch sử để chứng kiến cảnh: “Ta đi trong muôn ánh sao vàng, rừng cờ tung bay! Rộn ràng bao mê say những bước chân dồn về đây”, nhưng bằng sự trải nghiệm niềm hân hoan của một người nghệ sĩ mong ngóng ngày chiến thắng và hân hoan với ngày khải hoàn của dân tộc, lời ca, tiếng hát của ca khúc như là tiếng lòng của những người con nước Việt trong thời khắc quan trọng của lịch sử.

Sức sống mãnh liệt của ca khúc không phải dĩ nhiên mà có. Nó được đúc kết trong chính giá trị mà ca khúc tạo ra, xuyên qua năm tháng, vượt qua thời gian để chạm đến trái tim của bao thế hệ người nghe.

Về giá trị lịch sử, ca khúc đã khẳng định giá trị đích thực của nó trên nhiều khía cạnh, mà có thể nhìn nhận rõ nhất ở hai giá trị tiêu biểu là lịch sử - tư tưởng và nghệ thuật (nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật âm nhạc).

Dù đã trải qua bao nhiêu năm kể từ khi ca khúc ra đời, tác giả của bài hát đã trở thành người thiên cổ, nhưng âm hưởng của bài hát vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự và niềm hân hoan như thủa ban đầu của nó.

Chia sẻ bởi: 👨 Trịnh Thị Thanh
Liên kết tải về

Link Download chính thức:

Các phiên bản khác và liên quan:

Sắp xếp theo
👨
    Chỉ thành viên Download Pro tải được nội dung này! Download Pro - Tải nhanh, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm