Văn mẫu lớp 9: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương 3 Dàn ý & 17 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất (Sơ đồ tư duy)
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương gồm 17 mẫu SIÊU HAY, kèm theo 3 dàn ý chi tiết, giúp các em thấy rõ nỗi oan khuất mà nhân vật chính trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ phải gánh chịu.
Nhân vật Vũ Nương để lại trong người đọc nỗi cảm thương sâu sắc, nàng cũng là tiêu biểu cho số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội cũ. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để có thêm nhiều ý tưởng mới cho bài văn của mình:
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
- Sơ đồ tư duy Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
- Dàn ý suy nghĩ về thân phận người phụ nữ
- Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
- Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ qua Vũ Nương
- Suy nghĩ về số phận người phụ nữ
- Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ
- Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
- Hình tượng người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương
- Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ hay nhất (10 mẫu)
- Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nhân vật Vũ Nương
Sơ đồ tư duy Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Dàn ý suy nghĩ về thân phận người phụ nữ
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ, “Chuyện người con gái Nam Xương” và vẻ đẹp, số phận bi kịch của Vũ Nương.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp của Vũ Nương
Vũ Nương là cô gái xinh đẹp: tư dung tốt đẹp.
Là cô gái có đức tính tốt đẹp: thùy mị, nết na.
→ Khiến chàng Trương đem lòng yêu mến và cưới về làm vợ.
Ngày chồng tòng quân: nàng đau lòng, dặn dò và mong chồng bình an trở về.
Khi chồng ra trận: ở nhà một lòng một dạ chăm sóc con trai và chăm sóc mẹ chồng những ngày cuối đời.
→ Là người vợ hiền lành, đảm đang, đầy đủ “công - dung - ngôn - hạnh” đáng ngưỡng mộ.
→ Là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ với những phẩm hạnh tốt đẹp.
b. Số phận bi kịch của Vũ Nương
Nguyên nhân: khi chồng bế con ra thăm mộ mẹ, đứa nhỏ đã tiết lộ bố nó đêm nào cũng đến thăm nó → Trương Sinh đem lòng nghi ngờ, ghen tuông.
Khi Trương Sinh về nhà đã chửi mắng nàng và đuổi nàng đi mặc cho nàng van xin và thanh minh.
→ Người phụ nữ không được tự quyết định số phận của mình mà phải phụ thuộc vào người đàn ông trong gia đình. Tuy mình bị oan nhưng không được thanh minh.
Để chứng minh tấm lòng chung thủy của mình Vũ Nương đã nhảy sông tự tử.
→ Đau khổ, xót thương trước số phận bất hạnh của nàng sau những điều tốt đẹp nàng đã làm cho nhà chồng.
Sau này, khi Trương Sinh hiểu ra oan khuất của nàng đã vô cùng đau xót nhưng nàng không thể trở về nhân gian được nữa mà mãi ở lại nơi thủy cung. → Đây được coi là cái kết vừa có hậu vừa đoản hậu của Vũ Nương: có hậu vì cuối cùng nàng cũng được minh oan và khiến cho người làm nàng đau khổ là Trương Sinh nhận ra lỗi lầm, ân hận về lỗi lầm đó; đoản hậu vì nàng không được quay lại nhân gian để sống tiếp kiếp người, để nhận lại phúc đức sau những nghĩa cử cao đẹp nàng đã làm.
3. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp, số phận của Vũ Nương và giá trị của tác phẩm.
.....
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Trong văn chương từ cổ chí kim, có biết bao sáng tác đã viết về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bằng ngòi bút tài hoa và tấm lòng nhân đạo, Nguyễn Dữ đã tạc vào kho tàng văn học Việt Nam hình ảnh nàng Vũ Nương - đại diện cho số phận hồng nhan bạc mệnh của người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ.
Nguyễn Dữ được biết đến là người học trò tài giỏi của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tài năng, kiến thức uyên bác mà còn chất chứa những hoài bão nguyện vọng thầm kín về khát vọng hạnh phúc, sự công bằng trong cuộc sống. “Chuyện người con gái Nam Xương” trích trong “Truyền kì mạn lục” là tác phẩm tiêu biểu của ông.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau để bộc lộ vẻ đẹp đời sống và tính cách nhân vật. Nguyễn Dữ đã giới thiệu “Vũ Thị Thiết người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chỉ bằng một câu văn ngắn, Nguyễn Dữ đã khái quát một cách đầy đủ và trọn vẹn vẻ đẹp của Vũ Nương. Ở nàng hội tụ đầy đủ cả công - dung - ngôn - hạnh.
Không chỉ là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, Vũ Nương còn là một người vợ yêu chồng, thủy chung với chồng. Nàng luôn khao khát hạnh phúc gia đình. Dù chồng nàng đa nghi, phòng ngừa quá mức nhưng gia đình chưa từng xảy ra bất hoà bởi Vũ Nương sống rất đức hạnh. Cưới nhau chưa được bao lâu, Trương Sinh phải ra trận. Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Nàng vô cùng cảm thông và xót xa cho những nỗi gian lao, vất vả mà chồng sẽ phải chịu đựng chốn xa trường. Rồi khi chồng đi xa, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì lòng nàng không nguôi thương nhớ.
Không lâu sau đó thì nàng hạ sinh một đứa con trai, đặt tên là Đản. Nàng đã chỉ cái bóng trên tường và bảo rằng đó là cha Đản, để con có thể cảm nhận hạnh phúc của một mái ấm gia đình.
Với mẹ chồng, Vũ Nương đã làm tròn bổn phận của người con dâu hiếu thảo. Nàng đã tận tình chăm sóc mẹ chồng già yếu, ốm đau. Nàng hết sức chăm sóc, lễ bái thần phật. Lời trăng trối của người mẹ chồng đã cho thấy tình cảm đầm ấm giữa mẹ chồng – nàng dâu: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp…. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Với những người phụ nữ như vậy, ta ngỡ như họ sẽ có cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Nhưng “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Bi kịch của Vũ Nương bắt đầu từ khi Trương Sinh trở về. Chàng hay tin mẹ đã qua đời, con vừa học nói. Bé Đản ngây thơ kể về “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Lời nói ấy khiến Trương Sinh nảy sinh ghen tuông và nghi ngờ. Vũ Nương cố gắng tìm mọi cách để chồng hiểu cho tấm lòng thủy chung và trong sạch của mình. Nhưng thật đáng tiếc, Trương Sinh như đẩy nàng đến bước đường cùng khiến Vũ Nương mượn dòng nước Hoàng Giang để rửa nỗi oan nhục. Nàng đã phải chết oan ức nhưng nàng không hề oán trách, hận thù. Nghe chàng Phan kể về gia đình, về nhà cửa, nàng vẫn nặng lòng thương nhớ chồng con, nhớ nhung quê hương. Vũ Nương vẫn khao khát được phục hồi danh dự. Khi Trương Sinh lập dàn giải oan ở bến Hoàng Giang, Vũ Nương đã trở về để nói lời tạ từ. Cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã cho thấy vô vàn phẩm chất tốt đẹp.
Ông bà ta cũng từng nói: "Gái có công thì chồng chẳng phụ". Ấy vậy mà Vũ Nương lại phải hứng chịu một số phận bất hạnh. Trước hết, nàng là nạn nhân của xã hội phong kiến với tư tưởng trọng nam khinh nữ, phân biệt giàu nghèo. Không chỉ vậy, nàng còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Xã hội với những hủ tục phong kiến lạc hậu, hà khắc ấy cũng đã khiến nàng mang tiếng là “thất tiết” và đẩy nàng đến đường cùng, điều đó chính là nguyên nhân cho cái chết của Vũ Nương. Chính sự đa nghi và hồ đồ của Trương Sinh đã dồn nàng đến bi kịch đau đớn nhất cuộc đời, hứng chịu cái chết oan nghiệt.
Số phận của Vũ Nương không phải là số phận của một con người cá biệt mà tiêu biểu cho cuộc đời của rất nhiều người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ có đầy đủ công – dung – ngôn – hạnh nhưng lại chịu nhiều bất công, ngang trái. Qua nhân vật này, Nguyễn Dữ đã bày tỏ sự xót thương trước số kiếp khổ đau của người phụ nữ, trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp của họ. Đồng thời, tác giả còn lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến hà khắc cùng chiến tranh phi nghĩa.
Làm nên thành công của tác phẩm phải kể đến nghệ thuật xây dựng cốt truyện và tình huống truyện hấp dẫn, chi tiết thắt nút – mở nút cùng nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật, kết hợp những yếu tố hoang đường kì ảo.
“Phũ phàng chi bấy Hóa công
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen"
Câu thơ ấy như văng vẳng trong từng trang văn của Nguyễn Dữ khi viết về tất cả những tấn bi kịch của Vũ Nương. Số phận của nàng là lời cảnh tỉnh về cung cách sống và chế độ xã hội trong thời phong kiến.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ qua Vũ Nương
Số phận của người phụ nữ thời phong kiến không phải đề tài mới nhưng vẫn luôn khiến cho người đọc cảm thấy day dứt, thương xót cho nỗi bất công mà họ phải chịu đựng. "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ cũng là một tác phẩm viết về chủ đề này. Thông qua nhân vật Vũ Nương, tác giả đã mang đến cho độc giả thêm nhiều suy nghĩ về thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Ngay từ những dòng đầu tiên, Vũ Nương đã được giới thiệu là người con gái vừa xinh đẹp lại vừa có hiền thục, ngoan ngoãn: "tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp". Khi được gả vào nhà giàu, nàng luôn tuân thủ khuôn phép, không để gia đình phải xảy ra tranh cãi, lục đục bao giờ. Chiến tranh nổ ra, chàng Trương phải đi lính. Vũ Nương ở nhà nhất mực chung thủy chờ chồng trở về. Nàng chẳng mong chồng mình "đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về", chỉ cần chồng được bình an. Vũ Nương còn là một nàng dâu hiếu thảo. Nàng lo lắng, ra sức chăm sóc mẹ chồng bị ốm. Khi mẹ mất, nàng lo việc ma chay chu đáo như bố mẹ đẻ mình. Không những thế, trong thời gian xa chồng, nàng đã hạ sinh bé Đản. Lo sợ con thiếu vắng tình cha, Vũ Nương thường trỏ tay lên cái bóng và nói đó là cha Đản. Hành động này của nàng xuất phát từ tình cảm nhớ thương người chồng và lo lắng cho con. Thế nhưng, đó cũng chính là khởi nguồn cho bi kịch của Vũ Nương.
Khi Trương Sinh quay về, nghe bé Đản nói đêm nào cũng có người đàn ông đến nên đã nghi ngờ vợ thất tiết. Trương Sinh bèn nổi giận, mắng nhiếc, đuổi đánh Vũ Nương ra khỏi nhà. Mặc những lời thanh minh của Vũ Nương và sự khuyên can của hàng xóm, hắn vẫn một mực tin rằng vợ mình hư hỏng. Chẳng thể làm gì, Vũ Nương đành gieo mình xuống sông Hoàng Giang để chứng minh cho sự trong sạch của bản thân. Đọc đến đây, ta không khỏi thấy xót xa cho nhân vật chính. Vũ Nương đã phải chịu cảnh cô đơn, gồng gánh, chăm sóc cả gia đình khi không có chồng ở bên. Nàng mong chồng bình an trở về để lại được hưởng những tháng ngày ấm êm, hạnh phúc. Ấy vậy mà thứ nàng nhận lại được chỉ là sự tuyệt tình của người chồng đầu ấp tay gối. Điều này cũng khiến ta nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du khi viết về số kiếp của những người phụ nữ xưa kia:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Có thể không phải là tất cả, nhưng đa số người phụ nữ trong xã hội cũ phải chịu cảnh "bạc mệnh" giống như Vũ Nương. Cái chết của nàng chính là lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã khiến cho biết bao nhiêu gia đình phải lìa xa. Những người vợ, người mẹ phải chịu cảnh "chăn đơn gối chiếc". Họ không những bị chiến tranh xé nát hạnh phúc mà còn không thể tự quyết định cuộc đời mình. Tất cả mọi quyền hành nằm hết trong tay người đàn ông. Họ sống một cuộc đời mông lung, vô định, không biết tương lai bản thân ra sao. Điều này được thể hiện rất nhiều qua những câu ca dao than thân như:
"Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu"
Hay nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng từng bộc bạch:
"Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son"
Thật vậy, cho dù phải chịu nhiều nỗi bi kịch nhưng những người phụ nữ vẫn cố vun vén, giữ gìn hạnh phúc gia đình. Đến khi bị dồn vào đường cùng, không thể chịu đựng được nữa, họ đành phải lựa chọn cái chết như một sự giải thoát cho bản thân. Cái chết của Vũ Nương như một lời tố cáo đanh thép hướng đến xã hội "nam quyền" đầy bất công. Chính tư tưởng "trọng nam khinh nữ" đã đẩy những người phụ nữ nhỏ bé vào nhiều nỗi bi kịch, buộc họ phải chọn cái chết để chứng minh sự trong sạch của bản thân.
Qua "Chuyện người con gái Nam Xương" Nguyễn Dữ đã thành công xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương. Nàng là điển hình cho những người phụ nữ trong xã hội cũ. Tuy mang nhiều nét đẹp cả về ngoại hình lẫn phẩm chất, tính cách nhưng họ lại phải chịu đựng cuộc đời đầy đau thương, mất mát. Tuy thời đại đó đã qua đi nhưng mỗi lần đọc những tác phẩm viết về số mệnh bi kịch của người phụ nữ, ta vẫn không khỏi day dứt, xót xa cho những kiếp "hồng nhan bạc mệnh".
Suy nghĩ về số phận người phụ nữ
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện – Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là "Truyền kỳ Mạn Lục" gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của Truyền Kỳ Mạn Lục, được bắt đầu từ truyện "vợ chàng Trương". Qua việc xây dựng hình tượng Vũ Nương với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều oan khuất, Nguyễn Dữ đã bày tỏ lòng thương cảm với Vũ Nương, với những người có số phận hẩm hiu giống nàng.
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương thuộc phủ Lý Nhân, xuất thân trong một gia đình nghèo khó, vừa có nhan sắc lại có đầy đủ đức hạnh. Vì thế Trương Sinh con nhà hào phú đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về.
Phẩm hạnh tốt đẹp của Vũ Nương được thể hiện rất rõ trong các mối quan hệ với gia đình. Trong cuộc sống vợ chồng, nàng cư xử rất đúng mực, nhường nhịn, luôn biết giữ gìn khuôn phép cho nên dù chồng đa nghi, đối với vợ phải phòng ngừa quá mức nhưng vợ chồng không bao giờ thất hoà. Như vậy dù cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu và có dấu hiệu mua bán nhưng gia đình luôn êm ấm bởi đức hạnh của Vũ Nương. Khi tiễn Trương Sinh đi lính, nàng rót chén rượu đầy dặn dò những lời tình nghĩa đằm thắm thiết tha: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm hoa trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi". Lời tiễn biệt đó cho thấy nàng không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chàng bình yên trở về. Đó là mong ước giản dị, bình thường của người vợ, người phụ nữ luôn mong cuộc sống gia đình sum vầy, hạnh phúc. Không chỉ vậy, nàng còn biết cảm thông trước nỗi vất vả, gian lao mà người chồng phải chịu đựng khi ra chiến trường: "Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ hiền lo lắng". Rồi nàng còn nói lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung của mình trong những ngày chồng đi xa: "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù có thư tín nghìn hàng, cũng không sợ có cánh hồng bay bổng". Những câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng nhịp nhàng như nhịp đập thổn thức của trái tim người vợ trẻ, lời tiễn biệt ân tình thể hiện tình yêu thương chồng và niềm khát khao một mái ấm hạnh phúc. Xa chồng, Vũ Nương không lúc nào không nghĩ đến, không nhớ thương: "Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn nơi góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Tác giả đã dùng những hình ảnh ước lệ, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân tươi vui đi qua, mùa đông ảm đạm lại đến còn lòng người thì dằng dặc một nỗi nhớ mong. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên tường và nói với con rằng "cha Đản lại đến" không chỉ muốn con ghi nhớ bóng hình người cha trong trái tim non nớt của nó, mà còn thể hiện tình cảm của nàng trước sau như một, gắn bó như hình với bóng. Nói với con như vậy để làm vơi đi nỗi nhớ thương chồng. Tâm trạng đó của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người vợ có chồng đi lính trong thời loạn lạc:
"Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
( Trích "Chinh phụ ngâm" - Đoàn Thị Điểm)
Không chỉ là một người vợ thủy chung mà Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo. Khi chồng đi lính, nàng vẫn còn trẻ nhưng đã phải gánh vác mọi việc trong gia đình chồng. Trong xã hội, mối quan hệ mẹ chồng - nàng dâu rất khó dung hoà vậy mà Vũ Nương vẫn rất yêu quý, chăm sóc mẹ chồng như đối với cha mẹ đẻ của mình. Khi mẹ chồng ốm, nàng "hết sức thuốc thang và lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào, khôn khéo, khuyên lơn". Những lời nói dịu dàng, những cử chỉ ân cần của nàng thật đáng trân trọng. Đặc biệt lời trăn trối của bà mẹ chồng trước khi mất: "Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong sông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ" là sự ghi nhận, đánh giá rất cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình. Đặt trong xã hội lúc bấy giờ thì đây là lời đánh giá thật xác đáng và khách quan khiến ta cảm nhận được nét đẹp trong phẩm chất của Vũ Nương. Rồi đến khi mẹ chồng mất, nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như cha mẹ ruột. Nàng làm những việc đó không chỉ vì bổn phận và trách nhiệm của người con dâu mà còn xuất phát từ lòng yêu thương, sự hiếu thảo mà nàng đã dành cho mẹ. Rõ ràng Vũ Nương là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Trong cả ba tư cách: người vợ, người con, người mẹ, tư cách nào cũng nêu cao được đức hạnh của nàng: chung thủy, yêu thương chồng tha thiết, rất mực yêu thương con, hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng là mẫu người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến xưa, nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc bà được mọi người trân trọng.
Cứ ngỡ người phụ nữ như Vũ Nương sẽ có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, nhưng nàng lại vướng vào oan khuất đắng cay. Đó là khi Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ mà nghi nàng thất tiết và đã cư xử phũ phàng. Trước khi tự vẫn, nàng cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói đến thân phận, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình: "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp". Những lời nói của nàng đều vì muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có ngu cơ tan vỡ. Vũ Nương đã hết lời phân trần nhưng Trương Sinh không tin, vẫn mắng mỏ nàng thậm tệ và đánh đuổi nàng đi. Hạnh phúc gia đình - nỗi khao khát cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn: "Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm sa, đâu còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa". Cuộc hôn nhân đã không thể nào hàn gắn nổi. Bao công sức xây đắp tổ ấm đã trở nên vô nghĩa. Không thể nào giải được nỗi oan khuất, nàng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng mình: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất của nàng. Hành động trẫm mình xuống dưới sông Hoàng Giang là hành động cuối cùng để bảo toàn danh dự. Nàng tìm đến cái chết trong nỗi tuyệt vọng nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí: nàng tắm gội chay sạch trước khi chết và cầu nguyện một cách thanh thoát.
Tuy nhiên Vũ Nương vì trong sáng, vô tội nên được Linh Phi cứu giúp đưa về động rùa. Ở dưới thủy cung, nàng có được một cuộc sống sung túc cùng các tiên nữ nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi đau trần thế, nỗi nhớ gia đình, quê hương và đặc biệt luôn khao khát được phục hồi danh dự. Hình ảnh Vũ Nương trở về trong đàn tràng giải oan của Trương Sinh và lời nói vọng vào của nàng thể hiện nàng là người ân nghĩa thủy chung. Đàn tràng giải oan, sự ân hận muộn màng của Trương Sinh thể hiện tấm lòng vị tha cao thượng. Điều đó còn thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng, người tốt dù trải qua bao nhiêu oan khuất cuối cùng cũng được minh oan.
Truyện thành công nhờ việc sắp xếp các tình tiết hợp lí, cách tạo tình huống thắt nút, mở nút. Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả sắp xếp thêm một số tình tiết, thêm bớt, tô đậm những tình tiết có ý nghĩa làm cho diễn biến hợp lí, tăng tính bi kịch làm câu chuyện trên hấp dẫn. Nguyễn Dữ đã khéo léo sử dụng các yếu tố kì ảo tạo kết thúc có hậu làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chính.
Qua vẻ đẹp và bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã lên án, tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của người giàu, người đàn ông, đồng thời thể hiện tấm lòng trân trọng của mình đối với người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh thiệt thòi trong xã hội.
Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ
Trong kho tàng văn học trung đại có rất nhiều những tác giả đã dùng ngòi bút của mình để viết về những mảnh đời bất hạnh. Mà tiêu biểu nhất đó là số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Được sinh ra làm người nhưng không sống đúng giá trị của một con người. Trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Nàng chính là một đại diện tiêu biểu cho tầng lớp phụ nữ nói riêng và phụ nữ trong xã hội cũ nói chung.
Vũ Nương là một người con gái với xuất thân bình dân và vẻ đẹp dung dị mặn mà. Chính vì thế nàng đã được con trai hào phú trong làng để ý tới. Trương Sinh không tiếc trăm ngàn lạng vàng đến hỏi cưới nàng về làm vợ. Thế nhưng Trương Sinh là công tử ít học, từ bé sống trong nhung lụa nên có tính đa nghi, gia trưởng. Từ sau khi làm dâu ý thức được thân phận nhỏ bé, gia cảnh bần hàn của mình Vũ Nương chưa một lần dám phản kháng hay làm trái ý chồng. Cuộc sống những tưởng êm ả thế nhưng binh biến loạn lạc, Trương Sinh phải lên đường ra chiến trận. Ngày chia tay nàng rót chén rượu đầy cho chồng mà thưa rằng: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Mong muốn của nàng chẳng phải chức tước công lao chỉ đơn giản là hai tiếng hạnh phúc bình dị. Đó chính là niềm khát khao cháy bỏng của người vợ trong những ngày binh chiến loạn lạc.
Vũ Nương ở lại một tay tần tảo lo lắng việc nhà, chăm sóc mẹ già lại phải cáng đáng thêm đứa con mới lọt lòng. Thế nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ người phụ nữ ấy oán trách nửa lời. Sau khi tiễn con trai lên đường mẹ già vì quá đau buồn mà sinh bệnh nặng. Vũ Nương ngày đêm túc trực thăm nom, đi khắp nơi kiếm thầy tìm thuốc chữa cho mẹ chồng, đồng thời hết lời khuyên lơi nhưng bà không qua khỏi. Mẹ chồng vô cùng cảm động trước tình cảm của con dâu nên trước khi nhắm mắt xuôi tay bà cầm tay nàng mà dặn dò : “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống nòi tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.” Sau khi mẹ chồng qua đời nàng hết lòng ma chay, tang chú lễ nghĩa cho trọn đạo dâu hiền.
Về phần con nhỏ, do quấy khóc nên hàng đêm Vũ Nương ẵm con trên tay chỉ vào chiếc bóng mình trên tường và nói “Cha con đến kìa”. Mỗi lần như thế đứa bé lại cười reo thích thú. Lâu dần thành quen nàng cũng chẳng còn nhớ giải thích về “chiếc bóng” trên tường với con nữa.
Giặc tan, Trương Sinh trở về tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với nàng từ đây thế nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Chỉ vì hiểu lầm nhỏ nhặt mà đã đẩy cuộc đời Vũ Nương vào bế tắc.
Chính chiếc bóng mình trên tường đã khiến Trương Sinh nảy sinh lòng đa nghi đố kỵ. Không nghe vợ giải thích chỉ biết đánh đuổi nàng ra khỏi nhà. Vũ Nương vì quá tủi nhục đã trẫm mình xuống sông tự vẫn kết thúc nỗi oan nghiệt thấu trời. Nguyên nhân đẩy nàng đến cái chết không phải do sự vô tâm của chồng mà chính là sự cay nghiệt của miệng đời.
Số phận của Vũ Nương cũng chính là hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Luôn bị áp bức và dồn đến đường cùng. Dù họ có xinh đẹp tài hoa hay sang hèn thì đều chung một tiếng đó là “bạc mệnh”. Như nhà thơ Nguyễn Du từng viết:
“Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Họ là những nạn nhân của chế độ cũ, của những hủ tục lạc hậu và định kiến hà khắc. Sống ở đó họ chỉ tồn tại như những món đồ vô tri vô giác, mang đi đổi chác, bán mua và hoàn toàn không có quyền lên tiếng hay thanh minh gì cho mình. Vũ Nương chết mang theo nỗi oan thấu trời xanh thế nhưng kẻ khiến nàng rơi vào đường cùng là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án hay dè bỉu. Thậm chí khi nàng đã được minh oan, Trương Sinh cũng không bị cắn rứt lương tâm, không muốn nhắc lại chuyện cũ mà coi như “nó đã qua”. Phải chăng sự sống và cái chết của người phụ nữ trong xã hội bị coi thường đến mức rẻ rúm? Họ không có quyền thanh minh và lại càng không được bảo vệ đến tính mạng?
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã từng ngậm ngùi khi nói về thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ bằng những vần thơ đầy đau thương:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Thế nhưng mặc dù đã đạp lên số phận, đã khẳng định tiếng nói vị thế của mình song hành động đó của bà chỉ như một điểm sáng vụt qua giữa bầu trời đầy đen tối. Nó không đủ để làm nên một đại cách mạng về quyền sống và quyền làm người của phụ nữ trong xã hội đương thời đầy rối ren và bế tắc.
Vũ Nương chính là một hình ảnh đại diện cho số phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Những con người sinh ra làm con người nhưng không được sống trọn vẹn một kiếp người. Đó cũng là tiếng nói chống lại sự bất công, phân biệt đối xử trong xã hội, và là tiếng lòng nhân ái đầy sâu sắc mà nhà văn Nguyễn Dữ muốn gửi gắm.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong “Truyền kỳ mạn lục” - một tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân gian Việt Nam. Truyện phản ánh một vấn đề bức thiết của xã hội, đó là thân phận của người nông dân nói chung và người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến. Thế lực bạo tàn và lễ giáo phong kiện khắt khe đã chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ, mặc dù họ là những người phụ nữ đáng trân trọng trong gia đình và xã hội.
Câu chuyện kể về cuộc đời và số phận của Vũ Nương - một người, con gái nết na, thùy mị. Chồng nàng là Trương Sinh, con nhà giàu có nhưng ít học, vốn tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức. Trương Sinh lấy Vũ Nương không phải vì tình yêu mà chỉ vì cảm mến dung hạnh, để rồi không có sự chan hòa, bình đẳng trong cuộc hôn nhân đó. Mầm mống bi kịch của cuộc đời Vũ Nương bắt đầu từ đây.
Mặc dù chồng là người lạnh lùng, khô khan, ích kỷ nhưng Vũ Nương luôn đảm đang, tháo vát, thủy chung. Nàng khát khao hạnh phúc gia đình, mong muốn êm ấm thuận hòa nên luôn giữ gìn khuôn phép, ăn nói chừng mực. Khi chồng đi lính, Vũ Nương đã tiễn chồng bằng những lời mặn nồng, tha thiết: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng”. Thật xúc động với tình cảm của người vợ hiền trước lúc chồng đi xa. Tình cảm ấy đã làm mọi người rơi lệ.
Không chỉ là người vợ hiền, Vũ Nương còn là một nàng dâu hiếu thảo. Nàng chăm sóc chu đáo mẹ chồng, hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng như mẹ đẻ của nàng vậy. Chồng đi lính khi nàng có mang, biết bao khổ cực chỉ một thân một mình gánh chịu. Rồi nàng sinh con, một mình nuôi dạy con và chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng mất, nàng vô cùng thương xót, nàng lo ma chay, tế lễ hết sức chu đáo.
Khi giặc tan, Trương Sinh về nhà chỉ vì tin lời con trẻ mà nghi vợ hư hỏng nên chửi mắng vợ thậm tệ, mặc cho lời phân trần của Vũ Nương, mặc cho lời biện bạch của họ hàng làng xóm, Trương Sinh vẫn hồ đồ đánh đuổi Vũ Nương. Đau đớn, tủi nhục, Vũ Nương phải tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang.
Câu chuyện đã thể hiện nỗi oan khúc tột cùng của Vũ Nương, nỗi oan ấy đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội phong kiến vùi dập con người, nhất là người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ bị vùi dập, bị sỉ nhục, bị đày đến bước đường cùng của cuộc đời, họ chỉ biết tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong sạch. Điều này chứng tỏ xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền, độc đoán, sống thiếu tình thương đối với người vợ hiền thục của mình, để rồi gây ra cái chết bi thương đầy oan trái cho Vũ Nương. Thân phận của Vũ Nương thật đáng thương và phẩm chất của nàng cũng thật đáng khâm phục. Khi còn sống nàng là người vợ hiền dâu thảo, sống có nghĩa tình.
Khi chết, tuy được các nàng tiên cứu sống ở thủy cung nguy nga, lộng lẫy, nhưng lúc nào nàng cũng nhớ đến quê hương bản quán của mình. Là người nặng tình nghĩa, nàng đã ứa nước mắt khi nghe người cùng làng gợi nhắc đến quê hương, nhắc đến chồng con của mình. Thế nhưng, Vũ Nương vẫn còn đó nỗi đau oan khúc, nàng muốn phục hồi danh dự: Nàng không trở về trần gian mặc dù Trương Sinh đã lập đàn giải oan và đã ân hận với việc làm nông nổi của mình. Nàng không trở về trần gian đâu chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi - người đã cứu nàng, mà điều chủ yếu ở đây là nàng chẳng còn gì để về. Đàn giải oan chỉ là việc an ủi cho người bạc mệnh chứ không thể làm sống lại tình xưa nghĩa cũ. Nỗi oan khuất được giải nhưng hạnh phúc đâu thể tìm lại được. Sự dứt áo ra đi của nàng là thái độ phủ định trần gian với cái xã hội bất công đương thời. Đây cũng là thái độ đấu tranh đòi công lý của người phụ nữ trong xã hội phong kiến suy tàn. Dù cái chết là tấn bi kịch của người phụ nữ, nhưng họ thức tỉnh được tầng lớp phụ quyền, phong kiến. Sự vĩnh viễn chọn cái chết mà không trở lại trần thế của Vũ Nương đã làm cho Trương Sinh phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm của mình. Trương Sinh biết lỗi thì đã quá muộn màng.
Qua câu chuyện về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, Nguyễn Dữ tố cáo xã hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ, tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm vợ xa chồng, cha xa con, gia đình tan vỡ. Nỗi đau của Vũ Nương cũng là nỗi đau của biết bao người phụ nữ dưới chế độ phong kiến như nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và nhiều phụ nữ khác nữa. Phải chăng người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam luôn bị chà đạp dù họ có tài năng và phẩm chất cao đẹp. Bởi thế Nguyễn Dữ đã viết:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh vẫn là lời chung”
"Phận đàn bà" trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi dây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ. Và cũng như Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy luôn tìm đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình.
Bằng bút pháp kể chuyện, tình tiết lúc chân thật đời thường, lúc hoang đường kì ảo, Nguyễn Dữ đã xây dựng hình tượng nhân vật điển hình cho thân phận người phụ nữ ngày xưa. Họ thật đẹp, thật lý tưởng nhưng xã hội không cho họ hạnh phúc. Tác phẩm của ông vừa đề cao giá trị người phụ nữ lại vừa hạ thấp giá trị của xã hội phong kiến đương thời.
Hình tượng người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương
Hình tượng người phụ nữ là một hình tượng xuyên suốt trong suốt chiều dài văn học. Từ văn học dân gian:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. (ca dao)
Cho đến văn học viết. Người đọc thường để ý đến nhưng tác phẩm thơ ca mà quên đi bên cạnh thơ ca còn có các sáng tác bằng văn xuôi. Không chỉ có Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, mà còn có Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Qua câu chuyện của Vũ Nương, Chuyện người con gái Nam Xương nói lên một cách sâu sắc những bi kịch cùng vẻ đẹp và những khát vọng chân chính về hạnh phúc gia đình của người phụ nữ. Vẻ đẹp con người và số phận bi kịch của Vũ Nương có sức khái quát lớn. Đây không chỉ là câu chuyện về số phận thương tâm của một người phụ nữ mà còn là tấm lòng yêu thương trân trọng của tác giả dành cho những người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp trong xã hội phong kiến bấy giờ.
"Chuyện người con gái Nam Xương" có nguồn gốc từ chuyện kể dân gian: Vợ chàng Trương, là thiên thứ 16 trong tổng số 20 truyện của "Truyền kì mạn lục". Nhân vật chính trong tác phẩm là Vũ Nương, một người phụ nữ trung trinh, tiết hạnh, đẹp người, đẹp nết nhưng lại bị chồng nghi oan thất tiết. Do không có cơ hội để minh oan, giãi bày, Vũ Nương đành phải nhảy sông tự vẫn để chứng minh sự trong sạch của mình. Kết thúc truyện là hình ảnh Vũ Nương hiện về thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa lòng sông nói lời tạ từ rồi biến mất. Đó là bi kịch của rất nhiều những người phụ nữ bất hạnh khi mà hạnh phúc gia đình chính là chỗ dựa vững chắc cho họ, giờ đây đã tan thành mây khói, mất đi chỗ dựa cuộc sống, họ lâm vào bi kịch và cái chết là con đường giải thoát duy nhất để họ kết thúc bi kịch của chính mình. Vì thế, truyện không đơn thuần dừng lại ở sự phản ánh hiện thực mà còn tố cáo hiện thực, gióng lên niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ trong một xã hội công bằng, văn minh.
Những thông tin về tên tuổi, quê quán được nêu ra ngay từ đầu tác phẩm đã tạo cho người đọc cảm giác tin cậy, tăng độ tin cậy cho câu chuyện. Đây cũng là một thủ pháp quen thuộc của văn học trung đại. Không chỉ giới thiệu về tên tuổi, quê quán của Vũ Nương, Nguyễn Dữ ngay từ đầu đã khẳng định nàng là một người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ thời kì phong kiến: "tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp". Chính vì đức hạnh của nàng mà Trương Sinh đã nhờ người làm mối và lấy Vũ Nương làm vợ. Chi tiết ấy vừa làm nổi bật được đức hạnh của Vũ Nương, vừa nâng cao phẩm hạnh sáng ngời của nàng. Bởi nàng được cưới hỏi một cách đàng hoàng tử tế, được trân trọng không vì gia cảnh vẻ ngoài mà chính bởi phẩm chất của nàng.
Sau đó, nhà văn tập trung làm nổi bật vẻ đẹp đức hạnh của nàng, bằng việc đặt Vũ Nương vào rất nhiều hoàn cảnh, tình huống và các mối quan hệ xung quanh như với chồng, với mẹ chồng và với đứa con trai tên là Đản.
Nguyễn Dữ đã dành những lời lẽ đẹp đẽ ca ngợi phẩm chất tốt đẹp và tấm lòng trung trinh của người phụ nữ. Trước hết, ở nhân vật Vũ Nương ta nhận thấy, nàng là một người vợ hết mực thương chồng, sống trọn đạo vợ chồng. Lúc còn ở bên nhau, nàng toan lo mọi bề, tất cả đều chu toàn, cặn kẽ. Biết tính chồng hay ghen, thế nên, trong cuộc sống vợ chồng, nàng hết mực “giữ gìn khuôn phép, không để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”. Vũ Nương đã cư xử khéo léo, đúng mực, nhường nhịn và giữ đúng khuôn phép, không bao giờ để xảy ra nỗi bất hòa trong gia đình. Vì thế, chúng ta có thể thấy, nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình và rất đức hạnh. Nhưng với tính tình đa nghi, độc đoán, đổi với vợ phòng ngừa quá sức của Trương Sinh tiềm ẩn những nguy cơ gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình, dự báo bi kịch về sau mà nhân vật sẽ gây ra cho Vũ Nương.
Cuộc sống hạnh phúc êm ấm lại không kéo dài được bao lâu. Chiến tranh xảy ra, triều đình chiêu mộ binh lính. Trương Sinh tuy giàu có nhưng lại là kẻ thất học nên chàng bắt buộc phải tòng quân đánh giặc. Đây có thể xem là cơ hội để Trương Sinh lập công danh. Nhưng với Vũ Nương, công danh ấy không quan trọng bằng sự bình yên của chồng. Lời nàng dặn chồng trước lúc chàng ra đi khiến ta không khỏi xúc động: “Chàng đi chuyến này, thiếp cũng chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, hay mặc áo gấm trở về quê, chỉ xin ngày chàng về mang theo được hai chữ bình yên, như thế là đủ rồi”. Tấm lòng của nàng vẫn luôn hướng về an nguy của chồng. Tấm lòng ấy không thay đổi dù là khi gia đình ấm êm hạnh phúc hay là khi chàng Trương phải đi lính. Bởi lẽ, nhắc đến chốn chiến trận nơi biên ải xa xôi ai cũng nghĩ đến “một chắc sa trường rằng chữ hạnh” cũng như “cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi”. Vì thế mà với Vũ Nương, nguyện vọng duy nhất của nàng là chàng Trương được bình an. Đó là mong ước hết sức bình thường của một người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên.Tình thương chồng của nàng còn thể hiện qua sự chia sẻ trước những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng cũng như niềm cảm thông cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con.
Trong những năm tháng xa chồng, nàng luôn nhớ Trương Sinh tha thiết, thậm chí nàng còn trỏ bóng mình trên tường vừa để dỗ con vừa để vơi bớt nỗi nhớ chồng. Nỗi buồn nhớ của nàng khắc khoải triền miên, dài theo năm tháng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”.Nỗi nhớ chồng khôn nguôi nhưng cũng chính vì thế mà nàng hết lòng giữ trọn đạo nghĩa vợ chồng.
Ngay cả khi bị Trương Sinh nghi oan thất tiết thì tình yêu, sự thủy chung của vẫn được thể hiện qua những lời phân trần hết sức tha thiết, mong tìm cách hàn gắn lại hạnh phúc gia đình. Vũ Nương đã ra sức phân trần để cho chồng hiểu. Nàng khẳng định nàng bị oan: "cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót...". Nàng nói lên thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê và khẳng định một lòng nhất mực thủy chung, son sắt với chồng.Thậm chí, nàng còn cầu xin chồng "đừng nghi oan cho thiếp". Vũ Nương đang ra sức giữ gìn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Điều đó cho thấy nàng thực sự rất trân trọng hạnh phúc gia đình mà mình đang có và càng làm nổi bật lên niềm khát khát hướng tới hạnh phúc gia đình ấm êm của người phụ nữ Vũ Nương.
Nhưng mọi cố gắng của nàng đều đã không được đền đáp, dù phải tìm đến cái chết để chứng minh tấm lòng của mình. Bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Tuyệt vọng không cùng, Vũ Nương đành mượn dòng nước con sông Hoàng Giang sâu thẳm để rửa sạch tiếng nhơ oan ức. Lời thề trước khi chết của nàng khiến ta không khỏi cảm thông “thiếp nếu đoan trang giữ tiết trinh bạch gìn lòng vào nước xin làm ngọc Mị Nương, hay xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá lừa chồng dối con, thì dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin khắp mọi người đều phỉ nhổ”. Đến phút cuối cuộc đời nàng vẫn khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt ấy… Vũ Nương thật là người vợ giàu lòng tự trọng.
Ở thủy cung nàng vẫn không hề oán hận, vẫn mong ngóng ngày về để đoàn tụ với gia đình. Thẳm sâu trong tâm khảm của nàng vẫn là ước muốn được đoàn viên, được quay trở về dù chỉ một lần với chồng con, với cuộc sống gia đình hạnh phúc ngày xưa. . Khi Trương Sinh lập đàn giải oan, Vũ Nương chỉ trở về nói lời đa tạ rồi từ biệt. Nàng không hề trách móc, oán hận Trương Sinh, điều đó đã giúp chồng vơi bớt nỗi lòng, nỗi ân hận. Người phụ nữ nào cũng mong muốn được hưởng cuộc sống hạnh phúc từ hơi ấm gia đình, Vũ Nương cũng không phải trường hợp ngoại lệ, nhưng nàng không thể trở về.
Vũ Nương còn là một con dâu hiếu thuận, lễ nghĩa hết sức chu toàn và người mẹ hiền, nàng một mình chu đáo nuôi con nhỏ. Chồng đi ra chiến trận, nàng đã thay chồng gánh vác việc nhà, trọn đạo dâu con, tận tình chăm sóc mẹ già. Sau đó ít lâu, nàng đã hạ sinh bé Đản.Nàng vừa một mình làm cha một mình làm mẹ. Sợ con buồn khi thiếu vắng cha, nàng đã chỉ bóng mình trên vách để nói với con đó là cha. Thế nhưng mọi việc đều được nàng chu tất lo lắng. Tác giả không miêu tả trực tiếp nhưng ta có thể hiểu được Vũ Nương đã vất vả thế nào khi một mình quán xuyến mọi việc trong gia đình. Tuy vất vả cực nhọc là thế nhưng nàng vẫn chưa bao giờ oán than một lần. Đặc biệt, đối với mẹ chồng, nàng không hề ghét bỏ như người ta thường nói về mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu. Nàng hết lòng chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng. Khi mẹ ốm, nàng cũng hết sức lo lắng khôn khéo lựa lời khuyên lơn. Chính tấm lòng của Vũ Nương đã cảm động mẹ chồng. Ta có thể thấy câu nói của mẹ chồng Vũ Nương dành cho nàng “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, rồi con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con như con đã chẳng phụ mẹ”. Câu nói ấy là minh chứng rõ nét và thuyết phục nhất về phẩm chất của Vũ Nương. Mẹ chồng đã dành cho nàng những lời có cánh. Trước khi mất bà không lo lắng cho con trai cũng không oán trách số phận mà nói lời cảm ơn đến nàng dâu của mình. Việc đặt lời khen vào mẹ chồng đã tăng thêm tính chân thực và khách quan cho câu chuyện. Vũ Nương không chỉ quan tâm chăm sóc mẹ chồng khi mẹ chồng đau ốm mà khi mẹ chồng mất đi “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Tấm lòng ấy của nàng thật khiến ta cảm động. Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam, mang trong mình vẻ đẹp phẩm chất rất đáng trân trọng, ngợi ca.
Một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đảm đang, hiếu thảo, nhất mực thủy chung và hết lòng vun vén, trân trọng hạnh phúc gia đình như thế, đáng lẽ ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.Nhưng thật éo le và nghịch lí thay nàng lại phải chịu một cuộc sống gia đình bất hạnh và phải chết trong đau đớn, xót xa, đầy nước mắt.
Bi kịch bắt đầu từ câu nói ngây thơ của trẻ con. Thật ra để dỗ con, Vũ Nương hay chỉ vào cái bóng của mình trên vách mà bảo rằng đó là cha của Đản. Bé Đản ngây thơ nói với Trương Sinh. Đản cũng như chính Vũ Nương không ngờ rằng chỉ một cái bóng ấy lại gây ra bi kịch cho gia đình nàng. Trương Sinh vốn tính đã đa nghi nghe lời con đã vội khẳng định chắc nịch là vợ đã thất tiết. Vừa gia trưởng đa nghi lại vừa cố chấp, Trương Sinh khước từ mọi cơ hội giải thích của Vũ Nương. Nàng hết lòng kêu oan nhưng trương Sinh không nghe không nói cho nàng rõ sự tình mà cứ nhất mực đánh đuổi nàng đi. Đến những người hàng xóm bênh vực nàng cũng chẳng thể làm Trương Sinh động lòng. Nhân phẩm trong trắng và tấm lòng trinh bạch của nàng dành cho chồng. Cũng bởi vậy mà cuối cùng nàng đành lựa chọn cái chết để khẳng định sự trinh bạch. Bởi lẽ với nàng khi trinh tiết đã bị nghi ngờ thì mạng sống này còn đáng giá gì. Nếu sống nàng chỉ có thể sống trong nhục nhã ê chề. Nên chỉ đành dùng cái chết để chứng minh. Những lời nói cuối cùng của nàng thâu tóm tất cả những ngang trái của một đời phụ nữ: công lao nuôi con, chờ chồng thành vô ích; hạnh phúc gia đình (thú vui nghi gia nghi thất) tan vỡ, tình cảm vợ chồng không còn (bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió), cả nỗi đau khổ chờ chồng đến thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa.
Tấm lòng trinh bạch của nàng đã được người đời hiểu thấu, mối oan ức nhục nhã ấy đã được hóa giải. Những tưởng một kết thúc có hậu cho câu chuyện nhưng Vũ Nương lại lựa chọn cách xa lánh cuộc đời không hội ngộ sống chung cùng chàng Trương. Vũ Nương không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi và trần thế không còn chỗ nào cho người như nàng nương tựa. Đàn giải oan chỉ có thể khôi phục danh dự cho nàng chứ không thể làm sống lại tình xưa. Giữa Vũ Nương và Trương Sinh, dòng sông là nơi giải oan, nơi tái ngộ, nhưng không thể vượt qua.
Cái kết của Vũ Nương càng khiến cho người đọc day dứt và qua đó lên án tố cáo xã hội phong kiến. Những người phụ nữ chung thủy son sắt nhưng lại không được tôn trọng trong xã hội phụ quyền trọng nam khinh nữ. Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến với những điều luật hà khắc, bất công với nữ nhi. "Phận đàn bà" trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi dây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ. Và cũng như Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy luôn tìm đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình.Vũ Nương chết đi mang theo nỗi oan tột cùng, nhưng người gây ra tất cả những bi kịch trên là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án và cũng không mặc cảm với bản thân. Ngay cả khi nỗi oan ức ấy đã được giải thoát, Trương Sinh cũng không bị lương tâm cắn rứt, coi đó là việc đã qua rồi, không còn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã dung túng cho những kẻ như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những đau khổ không gì sánh được.
Người đọc cũng nhận ra không chỉ dừng lại ở đó tác phẩm còn gián tiếp lên tiếng tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Chính chiến tranh phi nghĩa đã làm tan nát biết bao gia đình đang hạnh phúc êm ấm. Nếu Trương Sinh không đi lính, nếu chàng không rời xa gia đình khi Vũ Nương sinh bé Đản thì có lẽ họ vẫn là một gia đình hạnh phúc ấm êm trọn vẹn bên nhau. Nhưng cái hạnh phúc ấy lại quá đỗi mong manh bị định kiến xã hội bóp nát. Trương Sinh mất vợ, Bé Đản mất mẹ còn Vũ Nương mất cả một đời. Bi kịch lại chồng chất nối tiếp bi kịch.
Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ngay trong cái lung linh kỳ ảo, sắc thái bi đát vẫn nằm sau hình ảnh rực rỡ của truyền kì. Điều đó một lần nữa khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong chế độ phong kiến. Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn và những giá trị mới. Phần này hoàn toàn là những tình tiết kì ảo, thể hiện tính chất truyền kì của truyện và tạo nên những giá trị thẩm mĩ mới mà truyện cổ tích chưa có.
Với sự sáng tạo cao về khắc họa nhân vật, cách kể chuyện, xây dựng kết thúc, kết hợp cùng việc khai thác vốn văn học dân gian và sử dụng tinh tế những yếu tố kì ảo, Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã bày tỏ sự cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính bi kịch của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Hơn hết, truyện truyền kì trung đại này cũng đã khẳng định nét đẹp tâm hồn của họ, cất lên tiếng nói cho bao mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp, công bằng mà họ hằng hi vọng.
Ngợi ca phẩm chất tốt đẹp và bênh vực người phụ nữ không chỉ có Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ mà nhiều nhà văn, nhà thơ khác cũng đã đồng thời lên tiếng. Với tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã ngợi ca, trân trọng nhan sắc, tài năng, phẩm hạnh của chị em Thúy Kiều như là những chuẩn mực, hình mẫu lí tưởng cho vẻ đẹp của con người mọi thời đại (Chị em Thúy Kiều). Nơi lầu xanh, tác giả đã khắc họa nỗi nhớ của Thúy Kiều đi liền với tình thương – một biểu hiện rất đáng trân trọng của đức hi sinh, lòng vị tha, chung thủy (Kiều ở lầu Ngưng Bích). Thiên tài Nguyễn Du cũng không quên gây ấn tượng cho người đọc với hình ảnh Thúy Kiều sống sâu nặng ân tình, sắc sảo, kiên quyết nhưng vẫn đầy khoan dung, độ lượng (Kiền hảo ân báo oán).
Bếp lửa của Bằng Việt lại xây dựng đầy cảm động hình ảnh người bà với tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút, thái độ bình tĩnh, vững lòng. Người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu vượt qua mọi thử thách khốc liệt của chiến tranh.
Người phụ nữ đi qua chiến tranh được khắc họa trong Những ngôi sao xa xôi lại càng đẹp hơn trong hình ảnh các cô thanh niên xung phong sống có tinh thần trách nhiệm cao, quyết tâm hoàn thành tốt mọi công việc được giao; anh dũng không sợ gian khổ, hi sinh; luôn trẻ trung, yêu đời; sống chan hòa, yêu thương nhau và luôn tin tưởng, lạc quan về thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Có lẽ vì vậy là không thể bỏ qua Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê trong những tác phẩm ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Những tác phẩm trên đã giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, cũng như thấm thía hơn tình cảm của tác giả thể hiện trong từng nhân vật.
Với nội dung sâu sắc ấy, Chuyện người con gái Nam Xương đã đi vào quỹ đạo nhân văn chung của văn học dân tộc, tạo được sự cộng hưởng với nhiều tác phẩm viết về người phụ nữ cũng như kết nối bền chặt cùng tâm hồn người đọc bao thế hệ. Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn để lại cho người đọc nhiều suy nghĩ. Có lẽ tất cả chúng ta đều tiếc nuối đau xót cho Vũ Nương người con gái với tấm lòng trinh bạch nhưng lại bất lực trước xã hội đầy định kiến. Chuyện người con gái Nam Xương đã để lại nhiều nghĩ suy, day dứt, đầy thương cảm cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ hay nhất
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ - Mẫu 1
Tác phẩm "Truyền kỳ mạn lục" của Nguyễn Dữ mang đến cho chúng ta một cái nhìn cảm thông và thương cảm cho số phận của những kiếp người nhỏ nhoi, kém may mắn và tố cáo những bất công của xã hội lúc bấy giờ. "Chuyện người con gái Năm Xương" trích trong tác phẩm ấy đã khiến lòng ta không khỏi buồn thương và nghẹn ngào về số kiếp, thân phận nổi trôi của những người phụ nữ xưa qua nhân vật Vũ Nương.
Vũ Nương là một người con gái xinh đẹp, tuy gia đình khốn khó nhưng lại có phẩm hạnh, nàng được người đời ca ngợi với "tư dung tốt đẹp" lại thêm tính cách nết na, thùy mị hơn người. Vũ Nương được Trương Sinh - con một nhà giàu có, quyền quý trọng hỏi cưới, hắn vì mến mộ nàng mà lấy nàng làm vợ. Hai người thành vợ thành chồng không trên cơ sở tình yêu, mặc dù vậy thì trên danh phận một người vợ, nàng vẫn luôn cố giữ cho gia đình được hạnh phúc êm ấm. Biết tính chồng nóng nảy lại hay ghen tuông, Vũ Nương luôn giữ mình mực thước, chưa bao giờ khiến Trương Sinh phải phiền lòng, đau khổ.
Ngày chàng Trương phải xa nhà đi lính, Vũ Nương buồn bã khi phải chia xa chồng, lo lắng cho đứa con còn nhỏ dại phải xa bố, mẹ thì đã già yếu đi nhiều. Là phụ nữ, ai chẳng khát khao được hạnh phúc vui vầy bên chồng con, nhưng vì hoàn cảnh, vì đất nước, nàng thuận lòng ủng hộ chồng ra chiến trận, không tham lam giàu sang, quan tước, nàng chỉ khóc nghẹn mà mong chồng mình được an yên trở về: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng".
Những ngày chồng ở nơi biên ải xa xôi, Vũ Nương ân cần chăm sóc mẹ già, con nhỏ. Một tay nàng gánh vác chuyện ngược xuôi, chuyện lớn nhỏ trong gia đình đều được sắp xếp vẹn tròn. Con nhớ bố nàng an ủi con bằng chiếc bóng mình in trên tường qua ngọn đèn dầu mỗi tối, mẹ già nhớ con nàng lựa lời ngọt nhẹ khuyên lơn. Ngày mẹ mất nàng đau khổ vô bờ nhưng vẫn gác lại niềm đau mà lo lo toan mọi thứ, tế lễ ma chay mẹ được nàng làm vô cùng chu đáo. Vũ Nương xứng đáng là một người mẹ hiền, một người con hiếu thảo mà xóm làng ai cũng ngợi khen. Một người phụ nữ đức hạnh như vậy đáng ra phải được hạnh phúc ấm êm, được yêu thương chở che từ bàn tay, bờ vai của chồng mình. Nhưng đáng buồn thay, thân phận nàng lại vô cùng nghiệt ngã. Ngày Trương Sinh trở về, sau khi viếng thăm mộ mẹ, hắn cùng con trò chuyện, hỏi han. Chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ về người cha trên chiếc bóng mà mẹ chỉ hằng đêm, cơn ghen tuông của kẻ độc đoán kia trỗi dậy. Hắn nghi ngờ sự không chung thủy nơi Vũ Nương, còn điều gì thất vọng hơn khi chính người đầu ấp tay kề lại nghi ngờ lòng trong sạch của bản thân cơ chứ?. Mặc cho những giải thích, van xin, mặc cho những giọt nước mắt oan ức, mặc cho bao hàng xóm khuyên bảo, minh oan, hắn vẫn coi ý nghĩ của mình là đúng. Trương Sinh đã đẩy chính vợ mình vào con đường cuối cùng của sự sống- cái chết oan nghiệt. Trương Sinh thực sự đã trở thành một kẻ chuyên quyền, ngu ngốc và tàn nhẫn, một kẻ thiếu tình thương yêu, hành động vô lương tâm. Và phải chăng, hắn chính là đại diện của một xã hội nam quyền, một xã hội "trọng nam khinh nữ" đương thời.
Vũ Nương có số phận trái ngang với nỗi oan không thể thanh minh, nàng bị vu cho tội thất tiết mà chẳng có quyền rửa sạch nỗi oan cho mình. Suốt thời gian chồng đi lính, nàng lo lắng vun vén gia đình, giữ vẹn đạo làm vợ, làm con,...vậy mà cuối cùng hạnh phúc lại không thề gìn giữ, chấp nhận xa đứa con thơ mang nặng đẻ đau, xa những người thân ruột thịt, chọn cái chết để chứng minh cho tấm lòng mình, giữ lấy danh dự cho gia đình. Cuộc đời ngắn ngủi của người phụ nữ ấy chưa một lần sống vì mình, vẫn luôn vì người khác, vậy mà hai tiếng hạnh phúc vẫn mãi xa vời tầm tay của nàng.
Vũ Nương như chính thân phận của bao kiếp người phụ nữ xưa bị đọa đày, bị vùi dập. Họ phải sống và chịu bao khổ đau, bao bi kịch xảy ra và cái chết là một bi kịch đầy đớn đau mà họ phải lựa chọn. Người phụ nữ xưa họ có nhan sắc, có tài năng, có cốt cách và một tấm lòng yêu thương, họ xứng đáng được hạnh phúc, được thương yêu, nâng niu và được trân trọng, nhưng xã hội dối trá, bất công đã khiến cuộc đời họ nghiệt ngã đến vô cùng. Nỗi đau mà Vũ Nương đã trải qua cũng như bao nỗi đau mà nàng Kiều, Tiểu Thanh trong thơ Nguyễn Du, người chinh phụ trong thơ Đặng Trần Côn và bao người khác phải gánh chịu, trải bao phen đoạn trường. Nghĩ về họ, ta mới thấy thấm thía hơn những vần thơ mà Nguyễn Du từng viết về kiếp đàn bà xưa kia:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
"Chuyện người con gái Nam Xương" đã khắc hoạ Vũ Nương trở thành một nhân vật điển hình cho những người phụ nữ xưa, họ đẹp và về tâm hồn và phẩm cách, họ hoàn mỹ cả về tài năng và trí tuệ nhưng họ lại không có sự may mắn trong cuộc sống và hôn nhân. Dù cho thời gian có trôi đi qua bao nhiêu năm nữa thì áng văn của Nguyễn Dữ vẫn mãi khiến ta khắc khoải buồn thương về một bài ca xót xa cho những kiếp "hồng nhan bạc mệnh" trong xã hội đương thời.
....
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nhân vật Vũ Nương
Nguyễn Dữ là một nhà nho sống vào thế kỉ XVI, nổi tiếng với tập văn xuôi viết bằng chữ Hán: Truyền kì mạn lục. Trong tác phẩm này, nhà văn tập trung phản ánh hiện thực của xã hội thời phong kiến Việt Nam thời bấy giờ đầy bất công, đen tối, chiến tranh liên miên, gây đau khổ cho dân lành. Đồng thời ông cũng cất lên tiếng thở dài ngao ngán, đông cảm xót thương cho cuộc đời éo le, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tiêu biểu là tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” với nhân vật Vũ Nương, một người phụ nữa nết na, hiền lành, đức hạnh nhưng cuộc đời lại chịu nhiều oan khuất, đắng cay, tủi nhục.
Trong kiệt tác Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du cũng đã từng kêu lên:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Sống trong xã hội phong kiến ngày xưa, cuộc đời người phụ nữ thời long đong, lận đận, gặp nhiều cảnh ngộ đắng cay. Cho nên không biết bao nhiêu nhà thơ đã cất lên tiếng thở dài ngao ngán đồng cảm xót thương cho cuộc đời éo le, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Với Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ, một nhà văn tài hoa, mang trong mình trái tim nhân đạo bao la rộng lớn cũng đã góp một tiếng nói bênh vực người phụ nữ.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời khổ đau và số phận bi thảm của nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương một người phụ nữ nết na, hiền lành, đức hạnh nhưng cuộc đời lại chịu nhiều oan khuất, đắng cay, tủi nhục.
Vũ Nương là người con gái đức hạnh, thủy chung với chồng, tận tụy với con và hiếu thuận với cha mẹ. Đức hạnh của nàng không những được hàng xóm ghi nhận mà còn khiến cho thần linh phải cảm động.
Trương Sinh mến vì dung hạnh, vậy nên không tiếc bạc tiền, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Biết chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức” nên “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa”.
Khi chiến tranh xảy ra, Trương Sinh dù là con một nhưng vẫn bị bắt đi lính. Khi tiễn chồng, nàng ân cần dặn dò chồng. Nàng không mong chồng “đeo được ấn phong hầu, áo gấm trở về quê cũ” cho cha mẹ rỡ ràng, bản thân mình thì được sống trong cảnh giàu sang, phú quý mà chỉ mong ngày về “mang theo được hai chữ bình yên” để vợ chồng sớm được sum vầy, vui hưởng hạnh phúc. Lời dặn dò chân thành, tha thiết thể hiện tấm lòng yêu thương chồng của Vũ Nương. Đối với nàng, mạng sống của chồng mới là quan trong còn như chuyện công danh phú quý nàng đâu màng nghĩ tới.
Rồi trong những ngày chồng đi vắng, nàng luôn sống trong nỗi cô đơn, mòn mỏi đợi chờ, ngày đêm thương nhớ chồng: “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”, lòng xót xa quặn thắt, “thổn thức tâm tình thương người đất thú” phải vất vả nơi biên ải xa xôi. Chiến tranh dai dẳng triền miên, dẫu nàng có nhớ có thương, thư tín ngàn hàng thì cũng không dễ gì đến được tay chàng.
Khi chồng ra đi, nàng ở nhà làm tròn bổn phận vợ hiền dâu thảo, sớm tối phụng dưỡng mẹ chồng, một mình nuôi dạy con thơ đúng như lời Đặng trần Côn đã từng miêu tả trong “Chinh phụ ngâm khúc”:
“Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân”
Gánh nặng gia đình đè lên vai nhỏ bé. Dù trăm bề vất vả nhưng nàng không một lời than vãn. Mẹ chồng ốm đau bệnh hoạn nàng “hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào, khuôn khéo khuyên lơn”. Đến khi người mất “phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Chính mẹ chồng nàng lúc sinh thời cũng ghi nhận tấm lòng thơm thảo hiếu kính ấy mà bảo rằng: “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Là người phụ nữ nết na đức hạnh, đảm đang, tháo vát, thương chồng thương con, thủy chung son sắt khiến cho người ta phải đem lòng kính phục. Thế nhưng tiếc thay người con gái nết na, hiền lành, đức hạnh ấy không được hưởng một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc mà phải gánh lấy số phận bi thảm:
Khi Trương Sinh trở về, vợ chồng chưa vui câu sum họp, hưởng trọn ái ân cho bõ những ngày tháng xa cách thì bỗng đâu tai họa bất ngờ ập tới. Chỉ vì một phút nông nổi, hồ đồ, tin lời trẻ con, chưa tra rõ thực hư mà Trương Sinh đã một mực nghi ngờ, vu oan cho vợ mình ở nhà thất tiết khiến cho hạnh phúc gia đình tan vỡ.
Lời nói vu vơ của bé Đản làm dấy lên nỗi hoài nghi của trương Sinh bấy lâu: “trước đây thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả” đã làm máu ghen tuông trong lòng chàng liền bộc phát, bản tính đa nghi hồ đồ. Trương Sinh chẳng thèm nghĩ đến chuyện hỏi han vợ cho tường tận mọi lẽ mà cứ “đinh ninh là vợ hư”, coi thường đạo nghĩa vợ chồng, nỡ sinh lòng phản trắc, dan díu tư tình với người khác trong những ngày mình đi vắng.
Vậy nên vừa “về đến nhà, chàng đã la um lên cho hả giận”. Chỉ thương cho Vũ Nương bỗng dưng phải chịu hàm oan, bị chồng coi thường khinh rẻ. Muốn níu giữ hạnh phúc gia đình và để cho chồng hiểu rõ lòng mình, nàng hết lời phân trần, biện bạch: nào là “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, chàng biền biệt nơi biên ải xa xôi, nàng ở nhà làm tròn bổn phận vợ hiền dâu thảo. Chàng đi rồi nàng đâu thiết gì đến việc “điểm phấn tô son” làm đẹp bản thân mình; những “nơi liễu ngõ tường hoa” ong bướm trai gái dập dìu, cũng “chưa từng bén gót”. Suốt ngày chỉ thui thủi trong nhà giữ gìn tiết hạnh thì làm sao “có chuyện mất nết hư thân như chàng đã nói”.
Lời lẽ phân trần rất mực đoan chính, hợp tình hợp lí. Lại thêm có mọi người xung quanh chứng giám. Chỉ tiếc rằng Trương sinh vì quá đa nghi, nông nổi, hồ đồ và ích kỉ nên không thấu được nỗi oan tình của vợ. Trương Sinh đã tàn nhẫn mắng nhiếc, đánh đập, xua đuổi nàng ra khỏi nhà mà không hề nghĩ đến nghĩa vợ chồng. Nghĩ rằng hạnh phúc gia đình đã tan vỡ, không thể nào cứu vãn được nữa nên nàng chỉ biết ngậm ngùi chua xót than thở, tiếc cho mối lương duyên giờ đây như “bình rơi, trâm gãy, mưa tạnh, mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió,… đâu còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa”.
Rồi trong cơn đau đớn, tuyệt vọng, Vũ Nương quyết định trầm mình nơi bến sông Hoàng giang, quyết dùng cái chết để rửa sạch nỗi oan tình, chứng tỏ lòng dạ ngay thẳng. Trước khi chết nàng ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.
Quả là lời lẽ bi ai thống thiết, đau đớn như đứt từng khúc ruột khiến ta đọc xong cũng cảm thấy xót xa thương cảm cho người con gái nết na đức hạnh mà không được hưởng cuộc sống bình yên hạnh phúc. Suốt đời nàng phải chịu nỗi hàm oan, tiếng nhơ không rửa, hạnh phúc tuổi xuân phút chốc bị chôn vùi, tấm thân ngà ngọc phải chìm sâu nơi biển cả. Than ôi, cái giá của ba năm thủ tiết chờ chồng, vất vả phụng dưỡng mẹ già nuôi dạy con thơ, sống cô đơn mòn mỏi đợi chờ chính là người bị người chồng đầu ấp tay gối lớn tiếng vu oan, đánh đập, đuổi xua, đẩy mình đến bước đường cùng, phải tìm đến cái chết oan nghiệt.
Dù sau này, Trương sinh có hiểu ra sự tình, Vũ Nương được trở về trần gian. Nhưng nàng trở về là để nói rõ oan tình và từ biệt vĩnh viễn chốn dương gian. Cái dương gian lạnh lẽo tình người ấy đã không còn chỗ để người tốn đẹp và thẳng ngay như nàng dung thân nữa rồi.Quả là thật cay đắng, tủi nhục và cũng thật bất công biết bao nhiêu!
Cuộc đời và số phận thảm khốc của Vũ Nương đã khiến cho bao người cảm động. Vua Lê Thánh Tông lúc đi ngang qua miếu thờ Vũ thị, nhớ lại chuyện xưa, xót thương người bạc mệnh mà khéo trách Trương Sinh rằng:
“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ
Cung nước chi cho lụy đến nàng
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.”
(Lại viếng Vũ thị)
Có thể nói, cuộc đời và số phận bi thảm của nàng Vũ Nương cũng là cuộc đời và số phận bi thảm của biết bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời. Một xã hội trọng nam khinh nữ đầy rẫy bất công thối nát. Trong xã hội ấy người phụ nữ càng tài sắc, nết na đức hạnh thì càng phải chịu nhiều khổ đau oan trái, bị oan mà không thể nói lời phân trần giải oan. Số phận của họ hoàn toàn do người khác định đoạt.
Khi người chồng đã lớn tiếng phán xét họ là người đàn bà thất tiết, họ chỉ có ba lựa chọn. Hoặc là rời bỏ xứ sở mà đi xa, suốt đời mang tiếng nhuốc nhơ. Hoặc nương nhờ nơi chốn từ bi, sống cho qua ngày đoạn tháng (Thị Kính). Hoặc dùng cái chết của mình chứng minh tấm lòng trong sạch thủy chung (Vũ Nương). Con đường nào cũng đưa người phụ nữ tới cảnh đoạn trường, đau khổ. Sống trong xã hội đó quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ bị chà đạp, vùi dập không thương tiếc.
Qua Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã mạnh mẽ tố cáo những hủ tục xã hội khắt khe và nói lên số phận bất hạnh, bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời đồng thời thể hiện sự trân trọng của ông đối với những phẩm chất cao đẹp của họ.
...
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!
- Lượt tải: 331
- Lượt xem: 375.705
- Dung lượng: 811,7 KB
Link Download chính thức:
Các phiên bản khác và liên quan:
- Quang NguyễnThích · Phản hồi · 8 · 14/08/23