Đề cương ôn thi học kì 1 môn Ngữ văn lớp 12 năm 2024 - 2025 (Sách mới) Ôn tập cuối kì 1 môn Văn 12 sách KNTT, CTST, CD (Cấu trúc mới)
Đề cương ôn tập học kì 1 Ngữ văn 12 năm 2024 - 2025 gồm hệ thống kiến thức kèm theo đề thi minh họa có đáp án giải chi tiết kèm theo. Qua đó giúp các bạn ôn luyện thuận tiện so sánh đối chiếu với bài làm của mình.
Đề cương ôn tập học kì 1 Ngữ văn 12 giúp học sinh tự ôn tập hiệu quả làm quen với các dạng bài tập trọng tâm. Hơn nữa, đề cương ôn thi học kì 1 Ngữ văn 12 được biên soạn gồm 3 sách Cánh diều, Chân trời sáng tạo, Kết nối tri thức rõ ràng, dễ hiểu giúp các em tự tin bước vào kì thi học kì 1 sắp tới. Bên cạnh đó các bạn xem thêm đề cương ôn tập học kì 1 Sinh học 12 sách Kết nối tri thức.
Đề cương ôn tập cuối kì 1 Ngữ văn 12 năm 2024 (Cấu trúc mới)
1. Đề cương ôn tập học kì 1 Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo
ỦY BAN NHÂN DÂN ……… TRƯỜNG THCS…… | ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ I MÔN: NGỮ VĂN 12 CTST |
I. NỘI DUNG ÔN TẬP
A. Phần đọc hiểu
a. Thơ cổ điển và lãng mạn
| Khái niệm | Đặc điểm |
Phong cách | Phong cách: Là một tập hợp những nét độc đáo tương đối ổn định có giá trị thẩm mĩ trong sáng tác của một tác giả, một trường phái văn học, một thời đại hay một nền văn học | Phong cách cổ điển có đặc điểm nổi bật là đề cao tính chất khuôn mẫu, chuẩn mực về tư tưởng và nghệ thuật Phong cách lãng mạn có đặc điểm là đề cao cảm xúc và trí tưởng tượng của con người, có khuynh hướng phá vỡ các quy phạm nhằm giải phóng con người cá nhân, bộc lộ cá tính một cách tự do nhất |
b. Truyện lãng mạn và hiện thực
| Khái niệm | Đặc điểm |
Phong cách hiện thực | Là phong cách nghệ thuật chú trọng việc khắc họa chính xác, tỉ mỉ những bức tranh chân thực về cuộc sống và môi trường xã hội với cảm hứng phê phán, bóc trần những mặt tiêu cực của thực tại | Đề tài gắn với cuộc sống hằng ngày, nhân vật thường điển hình cho một hoàn cảnh, một tính cách, một số phận trong xã hội |
c. Truyện truyền kì, văn tế
Thể loại | Khái niệm | Đặc điểm |
Truyện truyền kì | - Là thể loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ văn học Trung Quốc. - Truyện truyền kì phát triển trên nền tảng thần thoại, truyền thuyết,… của văn học dân gian và những tín ngưỡng văn hóa trong đời sống tinh thần của các dân tộc | - Trong truyện truyền kì, yếu tố kì ảo được sử dụng như một phương thức nghệ thuật có tính đặc thù nhằm thể hiện các vấn đề của thực tại - Ngôn ngữ truyện truyền kì: thường sử dụng lối nói so sánh - ẩn dụ; ưa hình thức biểu đạt cầu kì, khoa trương, phóng đại; chuộng ngôn từ hoa mĩ; dùng nhiều điển cố, hình ảnh biểu trưng;… |
.........
B. ĐỀ THI MINH HỌA
I. ĐỌC HIỂU (4đ)
Học sinh đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi kế tiếp
BÍ ẨN CỦA LÀN NƯỚC
(Bảo Ninh)
(1) Các dòng sông trôi đi như thời gian, và cũng như thời gian, trên mặt nước các triền sông biết bao nhiêu là chuyện đời đã diễn ra. Nhất là về đêm, trên làn nước của dòng sông quê hương tôi lấp lánh hằng hà những đốm sáng bí ẩn, có cả điều bí ẩn của đời tôi.
(2) Năm ấy, nhằm trúng đỉnh lũ đêm Rằm tháng Bảy, một loạt bom Mĩ phá tan vệt đê canh giữ đằng trước làng tôi. Dứt dậy nổ của bom và tiếng gầm ghê rợn của máy bay cường kích là chuỗi ầm ầm long lở của dòng sông phá bụng đê tràn ngang vào đồng ruộng.
Từ trên điếm canh, tôi chạy lao về làng. Hồi chiều, hay tin vợ ở nhà trở dạ nhưng tôi không thể rời vị trí hộ đê. Bây giờ giời đất sập rồi, trong tôi chỉ còn con tôi, vợ tôi. Tôi dốc toàn lực bình sinh vào đôi chân. Đằng sau, cơn đại hồng thuỷ đuổi bén gót.
Nước đã ngập làng. Tôi về, kịp dìu vợ leo lên mái. Mái nhà tranh của vợ chồng tôi bị lôi đi trong đêm đen. Đến khi mái rạ sắp rã tan ra thì ơn trời nó vướng vào thân đa trước đình làng. Đã cả một đám đông bám trên các cành. Nhiều bàn tay chìa xuống giúp tôi đỡ vợ con trèo lên. Vợ tôi ôm khư khư đứa con mới sinh, nhất định không để tôi bế đỡ.
– Con trai... con trai mà... con trai... Để yên em ẵm, anh vụng...
Nhiều giờ trôi qua. Mưa tuôn, gió thổi. Mực nước không dâng cao hơn, nhưng chảy xiết hơn. Cây đa đầy người hơn. Tôi mỏi nhừ. Tay ôm chặt vợ, tay níu mình vào chạc cây. Vợ tôi yếu lả, ướt lướt thướt, lạnh ngắt.
Khoảng gần sáng, bỗng có tiếng quẫy nước ngay dưới cành đa của vợ chồng tôi. Một giọng nghẹn sặc với lên:
- Cứu mẹ con tôi mấy... cứu mấy, người ơi...
Một bàn tay nhớt và lạnh như tay ma rờ vào chân tôi đang buông thống. Tôi vội cúi xuống, đưa tay ra. Nhưng bàn tay của người đàn bà dưới nước truội đi, chìm nghỉm. Cành đa kêu rắc, chao mạnh. Vợ tôi “ối” kêu một tiếng thảng thốt, và “ùm” con trai tôi, đứa con sơ sinh tôi chưa được nhìn thấy mặt, tuột khỏi bọc ni-lông trên tay mẹ nó, sa xuống làn nước tối tăm.
- Con tôi...! – Vợ tôi hét rú lên và lao ngay lập tức xuống nước hòng chụp lấy con.
Tôi phóng mình theo. Nước lạnh, ngầu bùn, sâu hút và cuốn mạnh. Tôi vớ kịp thằng con, nhao vội lên, trao nó cho những bàn tay đang chìa xuống, rồi lại lặn tiếp ngay để cứu vợ. Nhiều người phi xuống theo để trợ sức tôi...
Tôi tỉnh lại, thấy trời sáng rồi và đã tạnh mưa. Tôi nằm trong khoang một ca-nô cứu nạn đầy ắp người. Hồi đêm, tôi đã vật lộn điên dại quyết sống mái một phen với làn nước giết người, nhưng tôi đã thua cuộc. Ứa ra cả máu tai máu mũi mà không những không cứu nổi vợ, đến thi thể cô ấy tôi cũng bất lực không tìm thấy. Khi ca-nô quân đội tới, mọi người đã phải dùng sức để buộc tôi rời mặt nước. Kiệt sức, tôi ngất đi. Khổ đau, tôi tỉnh dậy, nước mắt nóng rực, tế nhói. Một chị phụ nữ chen tới bên tôi, lên lời an ủi:
– Phận chị ấy đã vậy, thôi thì anh phải nén lòng lại, giữ sức khoẻ mà nuôi con.
Ơn trời, anh còn kịp cứu được cháu. Chao ôi, vừa kịp khóc chào đời đã trải một cơn kinh hoàng hú vía. Anh coi con anh này. Cứ như không. Đã bú, đã ngủ rồi đây này.
Ngoan chưa này... Ôi chao, nó tè dầm rồi này.
Chị nựng nịu, và từ từ giở bọc chăn chiên đang ủ kín con tôi. Chị thay tã cho nó. Tôi nhìn, chết lặng.
- Con tôi... – Tôi khóc, đỡ lấy bọc chăn. – Con tôi!
(3) Từ bấy tới nay, thời gian trôi qua và triền nước trôi đi, tôi đã có tuổi và con gái tôi đã thành một thiếu nữ. Nó là đứa con của làn nước, mọi người đều nói thế bởi vì chuyện nó sa xuống dòng nước lụt rồi được cha nó cứu lên thì cả làng ai cũng biết. Nhưng điều bí mật kia thì không ai hay, kể cả con gái tôi cũng không thể biết.
Chỉ có dòng sông biết.
Có ngày nào mà tôi không ra đê ngắm làn nước trôi. Vợ tôi, con tôi và người đàn bà vô danh nhìn tôi từ đáy nước. Thời gian, năm tháng cứ trôi, dòng sông và lịch sử, tất cả đều đổi thay nhưng mà niềm đau của đời tôi thì khôn nguôi bởi ấy là một niềm đau không thể nói nên lời.
(Bảo Ninh, Những truyện ngắn, NXB Trẻ, Tái bản 2021)
* Bảo Ninh sinh năm 1952, tên thật là Hoàng Ấu Phương, quê ở xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh (nay thuộc thành phố Đồng Hới), tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Ông từng chiến đấu ở mặt trận B3 Tây Nguyên. Từ 1976 – 1981, ông học đại học ở Hà Nội, sau đó làm việc ở Viện Khoa học Việt Nam. Từ 1984 – 1986, ông học khoá 2 Trường Viết văn Nguyễn Du. Ông làm việc tại báo Văn nghệ Trẻ và là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1997.
Câu 1. Tóm tắt ngắn gọn nội dung truyện xác định tình huống thử thách đối với nhân vật “tôi” và ý nghĩa của tình huống ấy (1đ)
Câu 2. Nhân vật “tôi” là người thế nào? Em có đồng ý với nhân vật “tôi” để “điều bí mật kia không ai hay… chỉ có dòng sông biết” không? (1đ)
Câu 3. Xác định điểm nhìn trần thuật, nghệ thuật trần thuật trong văn bản Bí ẩn của làn nước. Việc sử dụng điểm nhìn, nghệ thuật trần thuật ấy có ý nghĩa như thế nào đối với việc truyền tải nội dung của văn bản? (1đ)
Câu 4. Bí ẩn của làn nước là gì? Em hãy xác định cảm hứng và thông điệp của văn bản bằng đoạn văn dài từ 7- 10 dòng (1đ)
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1. Truyện ngắn Bí ẩn của làn nước có ý nghĩa như thế nào với đời sống hôm nay? Tác phẩm tác động tới nhận thức và cảm xúc của em như thế nào? (trả lời bằng đoạn văn khoảng 200 chữ) (2đ)
Câu 2.
Đọc đoạn trích từ văn bản Sống chết mặc bay của Phạm Huy Tốn sau đây và viết bài luận so sánh, đánh giá nét tương đồng và khác biệt với tác phẩm Bí ẩn của làn nước của Bảo Ninh (4đ)
SỐNG CHẾT MẶC BAY
(Phạm Huy Tốn)
Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên lên to quá, khúc đê làng… thuộc phủ….. xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất.
Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng kẻ thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thật thảm.
Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử cả, ấy vậy mà trên trời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thì nước bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đề này hỏng mất, ấy lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân yếu hèn mà chống với mưa to gió lớn, để bảo thủ lấy tính mạng, gia tài, thế thời quan cha mẹ ở đâu?
Thưa rằng: đang ở trong đình kia. Cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đề, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nào cũng không việc gì.
Trong đình đèn thắp sáng trưng, nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập mới kê ở gian giữa, có một mình quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông chốc chốc lại phe phẩy.
Tên nữa đứng khoanh tay chực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đổi mới chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đẩy những trầu vàng... trông mà thích mắt.
Ngoài kia tuy mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch, nghiêm trang lắm: trừ quan phụ mẫu, mọi người không dám to tiếng.
So với cảnh trăm họ đang lấm láp, gội gió tắm mưa như đàn sâu lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ, nguy nga: nào quan ngôi trên, nào nha ngồi dưới, người nhà lính lệ khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh. Thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: “Điếu mày”, tiếng tên lính hầu thưa: “Dạ”; tiếng thầy để hỏi: “Bẩm bốc”, tiếng quan lớn truyền: “Kẻ này “Bát sách! Ăn. Người kia “Thất văn”!... “Phỗng” lúc mau, lúc khoan, dung êm ái; khi cười, khi nói, vui vẻ, dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vị phúc tinh.[...]
Quan lớn ù thêm. Người đầu cánh, kẻ cuối tay, tranh nhau phô bài để lớn rõ rằng: “Mình có đôi mà không dám phỗng qua mặt!”. Hèn chi mà quan chẳng ù luôn! Quan ù ấy là hạnh phúc....
Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi xong bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu rung đùi, mắt đang mãi trông đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa tiếng kêu vang dậy trời đất. Mọi người đều giật nảy mình, quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chờ người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ, vì ngài sắp ù to.
Có người khẽ nói:
- Bẩm, dễ có khi đê vỡ?
- Bẩm... quan lớn... đê vỡ mất rồi!
Ngài cau mặt, gắt rằng:
- Mặc kệ! [...]
- Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày. Có biết không... Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?
[...]
(Nguyễn Cừ, Phạm Duy, Phạm Duy Tốn – Tác phẩm chọn lọc, NXB Văn học 2002)
(*) “Sống chết mặc bay” đăng trên tạp chí Nam Phong, số 18/12/1918.
-----Hết-----
- Học sinh không được sử dụng tài liệu.
- Giám thị không giải thích gì thêm.
..........
Tải file tài liệu để xem thêm Đề cương ôn thi cuối học kì 1 Văn 12 Chân trời sáng tạo
2. Đề cương ôn tập học kì 1 Ngữ văn 12 Kết nối tri thức
ỦY BAN NHÂN DÂN ……… TRƯỜNG TH PT …… | ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ I MÔN: NGỮ VĂN 12 KNTTVCS |
ĐỀ MINH HỌA SỐ 1
Môn: Ngữ văn - Lớp 12
Thời gian làm bài: 120 phút
Phần I: ĐỌC HIỂU
HƯƠNG THẦM
(Phan Thị Thanh Nhàn)
Cửa sổ hai nhà cuối phố
Không hiểu vì sao không khép bao giờ.
Đôi bạn ngày xưa học cùng một lớp
Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa.
Giấu một chùm hoa sau chiếc khăn tay,
Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm,
Bên ấy có người ngày mai ra trận.
Họ ngồi im không biết nói năng chi
Mắt chợt tìm nhau rồi lại quay đi,
Nào ai đã một lần dám nói ?
Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối
Anh không dám xin,
Cô gái chẳng dám trao
Chỉ mùi hương đầm ấm thanh tao
Không giấu được cứ bay dịu nhẹ.
Cô gái như chùm hoa lặng lẽ
Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu.
(Anh vô tình anh chẳng biết điều
Tôi đã đến với anh rồi đấy…)
Rồi theo từng hơi thở của anh
Hương thơm ấy thấm sâu vào lồng ngực
Anh lên đường
Hương thơm sẽ theo đi khắp
Họ chia tay
Vẫn chẳng nói điều gì
Mà hương thầm thơm mãi bước người đi.
Anh /chị hãy viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn. Từ đó hãy bình luận về vẻ đẹp ngôn ngữ trong thơ.
* Phan Thị Thanh Nhàn sinh 9/8/1943 tại phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội. Bà làm thơ từ sớm, đầu thập niên 1960 đã có thơ đăng báo. Bà là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội trong giai đoạn 2001-2005. Ngoài làm thơ, bà còn viết báo, truyện ngắn, truyện cho thiếu nhi.
Năm 2007 Phan Thị Thanh Nhàn được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Phan Thị Thanh Nhàn viết nhiều thơ tình. Theo năm tháng, những bài thơ tình của bà từ nhẹ nhàng, tươi tắn chuyển sang giàu trải nghiệm, trăn trở nhưng độ lượng hơn. Nhưng dù thế nào, những bài thơ của bà vẫn rất chân thành, gần gũi và vì thế chiếm được chỗ trong lòng người đọc.
* “Hương thầm” được Phan Thị Thanh Nhàn sáng tác vào mùa hoa bưởi tháng 3-1969 để ghi nhớ ngày cậu em Phan Hữu Khải (1953-1972) lên đường ra trận (Ở lớp cấp III có cô bạn thầm thương trộm nhớ cậu em ấy, nhưng chính cậu không hề biết, chỉ có chị gái tinh tế biết được điều này). Cùng bài “Xóm đê” của Phan Thị Thanh Nhàn được tặng giải nhì Cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ 1969-1970. Năm 1984, Hương thầm đã được nhạc sĩ Vũ Hoàng phổ nhạc và cũng trở nên nổi tiếng.
Câu 1: Dấu hiệu cho biết thể loại của văn bản trên.
Câu 2: Khung cửa sổ hai nhà cuối phố có đặc điểm gì?
Câu 3: Phân tích ý nghĩa của biện pháp so sánh trong hai câu thơ sau:
Cô gái như chùm hoa lặng lẽ
Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu.
Câu 4: Hương bưởi là một hình ảnh xuyên suốt, để lại ấn tượng trong bài thơ, theo anh/chị hình ảnh ấy có ý nghĩa gì?
Câu 5: Câu chuyện tình yêu của anh lính và cô bé nhà bên khiến cho anh chị có sũy nghĩ gì về tình yêu của tuổi trẻ hôm nay? Trình bày suy nghĩ của mình trong khoảng 5 – 7 dòng.
Phần II: VIẾT
Câu 1: Viết 1 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình suy nghĩ của bản thân về cái hay cái đẹp của văn chương qua bài thơ Hương thầm – Phan Thị Thanh Nhàn
Câu 2: Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về suy nghĩa sau: lắng nghe người khác nói không chỉ là thói quen, là phép tắc, mà còn là cách sống.
HẾT
ĐÁP ÁN
Phần | Câu | Nội dung | Điểm |
I | 1 | - Thể thơ tụ do - Số chữ trên một dòng không bằng nhau | 0.5 |
| 2 | Hai nhà cuối phố có đặc điểm - Không phép bao giờ - HS có thể chép cả câu thơ Không hiểu vì sao không khép bao giờ - | 0.5 |
| 3 | Biện pháp tu từ so sánh: Cô gái như chùm hoa.. Tác dung: - Làm cho câu thơ gợi hình, gợi cảm, hình ảnh thơ sinh động, cụ thể - Làm nổi bật tình yêu trong sáng, tha thiết nhưng vô cùng tinh tế và kín đáo | 1.0 |
| 4 | Hương bưởi là xuyên suốt, để lại ấn tượng sâu sắc - Gợi vẻ đẹp tinh khôi, bình dị với hương thơm nồng quen thuộc của làng quê muôn đời - Ân dụ (bưởng tương) cho tinh yêu của cô gái: nồng nàn, tha thiết, tinh tế... | 1.0 |
| 5 | Câu chuyện tình yêu của cô gái gợi suy nghĩ: - Tình yêu của cô gái trong bài thơ kín đáo, tinh tế -> Tình yêu không nói ra bằng lời => Tình yêu của cô gái truyền thống... - Tình yêu thời nào cũng vậy: nồng nàn, tha thiết, chân thành... Tuy nhiên tuổi trẻ ngày nay thể hiện tình yêu bộc trực hơn, táo bạo hơn, cá tính hơn -> biểu hiện tình yêu của cô gái hiện đại Ghi chú: HS có thể có quan điểm khác, nhưng cách suy nghĩ phải tích cực, nhân vân... | 1.0 |
II | 1 | - HS biết cách viết đoạn văn đúng yêu cầu: hình thức, không mắc các lỗi chính tả, diễn đạt... - HS biết chia nội dung thành các luận điểm, luận cứ - Hiểu yêu cầu của đề: cái hay cái đẹp trong văn chương qua bài thơ Hương thầm... - HS có thể trình bày những ý sau: + Cái hay cái đẹp trong văn chương là đích đến, mục tiêu, quyết định sức sống của tác phẩm văn học + Cái hay cái đẹp trong văn chương được hiểu: Nội dung sâu sắc, nghệ thuật độc đáo... + Biểu hiện cái hay, cái đẹp của văn chương trong bài thơ Hương thầm 1/ Nội dung đọc đáo: Câu chuyện tình yêu đẹp, trong sáng, có chút tiếc nuối vì Họ chia tay/ Vẫn chẳng nói điều gì . Nhưng chính sự tiếc nuối đó làm cho chuyện tình của cô với chàng trai lãng mạn hơn, thi vị hơn (HS phân tích thơ) 2/ Nghệ thuật độc đáo: thể thơ; hình ảnh đẹp gợi cảm (hương bưởi); các biện pháp nghệ thuật...; sự kết hợp phương thức tự sự trong bài thơ làm cho ý thơ sâu sắc hơn; cảm xúc của người đọc trở nên chân thực hơn... -> Bài thơ không hẳn đã là một kiệt tác những có lễ đây là một trong bài thơ viết hay nhất về tình yêu đối lứa. Nhạc sỹ Vũ Hoàng đã phổ nhạc cho bài thơ để rồi âm nhạc chắp cánh cho thơ cùng bay cao, vang xa... | 2.0 |
| 2 | Học sinh biết viết bài văn theo đúng yêu cầu - Biết chia nội dung thành các luận điểm, luận cứ; biết vận dụng các thao tác nghị luận với lý lẽ, dẫn chứng để viết bài văn. MB: Giới thiệu vấn đề nghị luận Đánh giá vấn đề nghị luận TB - Giải thích: lắng nghe không chỉ là thói quen, là phép tắc, mà còn là cách sống... - Thói quen là hành vi mà chúng ta thực hiện một cách tự động và thường xuyên, đến mức chúng trở thành một phần của cuộc sống hàng ngày mà không cần suy nghĩ hay cố gắng ý thức để thực hiện. - Phép tắc là lễ phép, lối sống phải tuân theo; là hành của người biết đúng – sai, phải – trái -> nói đến đạo đức, lễ nghi của con người - Cách sống: Hơn cả đạo đức, ý nói lắng nghe người khác là lựa chọn có ý thức, là hành vi thể hiện nhận thức của con người -> Hành vi có sự kết của đạo đức và nhận thức... - Nêu biểu hiện của vấn đề nghị luân: - Bình luận: +Trong cuộc sống có lúc ta lắng nghe người khác nói chỉ là một phản xạ tự nhiên theo kiểu ai nói gì thì mình nghe đó, có người nói thì phải có người nghe... nhưng khi nghe người khác nói là phép tắc thì chúng ta nhận ra việc nghe người khác nói là trách nhiệm của bản thân, thể hiện mối quan hệ trên dưới, lớn nhỏ, phép lịch sự... Tuy nhiên khi nghe người khác nói trở cách cách sống thì đó là hành vi ở mức cao hơn của nhận thức: ++ Nghe người khác nói là phép lịch sự tối thiểu, thể hiện cảm xúc tình cảm của chúng ta trong giao tiếp: sự đồng cảm, thấu hiểu... từ đó chúng ta có môi trường giao tiếp văn minh. ++ Nghe người khác nói trở thành như cầu: tiếp nhận thông tin, học hỏi... từ đó hoàn thiện bản thân ++ Nghe người khác nói không có nghĩa là tiếp nhận tất cả ý kiến của người khác, mà nghe có sàng lọc: tiếp nhận thông tin đúng, hữu ích; loại bỏ thông tin thừa, vô nghĩa... Hs lấy dẫn chứng Bài học nhận thức, hành động - Rèn luyện bản thân để việc nghe người khác nói là trở thành một kỹ năng sống, là còn đường hoàn thiện bản thân, dẫn đến thành công - Để nghe người khác trả thành cách sống phải có sự khách quan trong quá trình lắng nghe, tránh bảo thủ tự cho mình đứng, là hơn. - Là HS việc chúng ta lắng nghe người khác nói không chỉ là thói quen, là đạo đức, phép tắc mà còn là kỹ năng để chúng ta học tập, rèn luyện tốt hơn. KL: Khái quát lại vấn đề | 4.0 |
............
Tải file tài liệu để xem thêm Đề cương ôn tập học kì 1 Ngữ văn 12
3. Đề cương ôn tập học kì 1 Ngữ văn 12 Cánh diều
TRƯỜNG THPT…….. BỘ MÔN: NGỮ VĂN | ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I NĂM HỌC 2024 – 2025 MÔN: VĂN, KHỐI 12 |
A. KIẾNTHỨC TRỌNG TÂM
Bài 3: Nhật kí, phóng sự, hồi kí | Bài 4: Văn tế, thơ | Bài 5: Văn nghị luận |
ĐỌC | ||
Đọc hiểu văn bản chú ý đặc trưng của thể loại nhật kí, phóng sự, hồi kí: + Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của nhật kí, phóng sự, hồi kí như tính phi hư cấu và một số thủ pháp nghệ thuật: miêu tả, trần thuật; sự kết hợp chi tiết, sự kiện hiện thực với trải nghiệm của người viết,... trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng, thông điệp của tác phẩm. + Đánh giá được tác động của tác phẩm đối với người đọc và tiến bộ xã hội. | - Đọc hiểu văn bản chú ý đặc trưng của thể loại văn tế: + Phân tích, đánh giá được chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc thông qua hình thức nghệ thuật (kết cấu, lời văn, giọng điệu, hình tượng nhân vật, ngôn ngữ…) và nội dung (chủ đề, cảm hứng chủ đạo…) của thể loại văn tế. + Nhận biết và phân tích được một số biểu hiện của phong cách trung đại qua văn bản như tính quy phạm, nghệ thuật đối… - Đọc hiểu văn bản chú ý đặc trưng của thể loại thơ: + Phân tích, đánh giá được chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc thông qua hình thức nghệ thuật của văn bản thơ (cảm hứng chủ | - Đọc hiểu văn bản chú ý đặc trưng của thể loại văn nghị luận: + Nhận biết và phân tích được nội dung và vai trò của các luận điểm, lí lẽ, bằng chứng tiêu biểu, độc đáo; mục đích, tình cảm và quan điểm của người viết. + Phân tích và đánh giá được mức độ phù hợp giữa nội dung nghị luận với nhan đề của văn bản; các biện pháp làm tăng tính khẳng định, phủ định; cách lập luận và ngôn ngữ biểu cảm trong văn bản nghị luận. |
đạo, nhân vật trữ tình, hình ảnh, ngôn ngữ…). | ||
THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT | ||
Ngôn ngữ trang trọng và ngôn ngữ thân mật | Biện pháp tu từ nghịch ngữ | Tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong học tập và nghiên cứu |
VIẾT | ||
Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm kí | Viết bài nghị luận về một vấn đề có liên quan đến tuổi trẻ | Viết bài nghị luận về vai trò của văn học đối với tuổi trẻ |
NÓI VÀ NGHE | ||
Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm kí | Thuyết trình về một vấn đề của tuổi trẻ có liên quan đến cơ hội và thách thức đối với đất nước | Nghe thuyết trình một vấn đề văn học |
B CẤU TRÚC ĐỀ THI (100% tự luận)
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Hình thức: trả lời 05 câu hỏi tự luận ngắn Nội dung:
+ Văn bản nghị luận văn học/ văn bản văn học thể loại nhật kí, phóng sự, hồi kí; văn tế, thơ.
+ Kiến thức về đặc trưng của thể loại nhật kí, phóng sự, hồi kí, văn tế, thơ, văn nghị luận.
+ Kiến thức đọc hiểu văn bản: phương thức biểu đạt, biện pháp tu từ, ý nghĩa hình ảnh, chi tiết đặc sắc…
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận văn học phân tích và đánh giá một khía cạnh của văn bản hoặc phân tích làm rõ một đặc điểm của thể loại qua văn bản (khoảng 200 chữ).
Câu 2. (4,0 điểm) Viết bài nghị luận về một vấn đề có liên quan đến tuổi trẻ.
C. ĐỀ THI MINH HỌA
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản sau:
(Tóm tắt phần trước: Tác giả - nhân vật “tôi” – là một nhà báo, vào vai một người thất nghiệp đi xin việc, gia nhập vào đội phu kéo xe ở Hà Nội để có những trải nghiệm chân thực về công việc này, phục vụ cho việc viết bài.)
Gió hồ Trúc Bạch hây hây quạt mát.
Đường Cổ Ngư tấp nập những xe nhà gọng đồng sáng nhoáng, những torpédo với limousine của các khách thừa lương.
Được tắm gội bằng luồng gió mát, người họ chắc nhẹ như chiếc lông hồng. Cùng ngọn gió hồ, cùng cảnh mặt nước gợn trăng mà tôi thì thấy như bứt
rứt.
Cái đấm bị ở vai, không đau bằng xương sườn, xương gáy với xương ống
chân mỏi rức. Rức xương lại chưa bằng rức óc. Mà lúc ấy thì tôi mỏi rức cả óc lẫn xương.
Cái óc bảo cái xương: “Mày cũng như tao, đang đau rức”, rồi lại bảo cái mắt: “Chúng mày hãy trông trên đường”.
Trên đường có cái gì?
Một anh chàng béo như con trâu trương với bốn đứa con - thiếu chị vợ để họp thành cả một gia đình - Cùng ngồi trên chiếc xe, một người kéo đi bước một.
Đổi địa vị, bậy giờ cho người này ngồi lên, người kia bước xuống.
Kéo được ba bước, người kia rồi phải trỏ vào mặt người này mà nghiến hai hàm răng thật chặt:
- Chúng mày tàn nhẫn lắm, quân bất lương!
Những buổi tối mùa hè người ta thường nghe những tiếng:
- Mày đánh xe kéo mợ đi chơi mát!
- Mười lăm xu một giờ, có đi không?
Rồi, ngang dọc, khắp đường, người ta thấy những gái đã năm con còn phấn đắp như trát, ngồi lấy bộ cho đẹp trên những chiếc xe sơn đỏ, sơn đen; thằng xe thì kéo bở hơi tai, ống chân phải bó xà cạp để tỏ cho người biết bà chủ nó là nhà sang trọng. Lại những thằng vai so đầu mướt, to lớn như ông Hộ pháp, nằm sóng
sượt trên những chiếc xe đi giờ, miệng phì phào hơi thuốc Ăng-lê, hai mắt như mắt Long thần, hết nhìn ngang lại nhìn dọc...
- Mười lăm xu một giờ, có đi không?
- Mày kéo mợ đi chơi mát!
Mươi lăm xu một giờ. Ba đồng một tháng. Bát mồ hôi pha máu của người, họ đáng giá không được một đồng kẽm. Thật quân bất lương!
Ngồi nghĩ ngợi lan man sau khi đã mặc bộ quần áo phu xe, nghe người ta mắng chứi, chịu người ta đánh đòn, tôi lại sực nhớ đến một ông già tôi gặp khoảng ba năm trước.
- Kéo xe đôi, - Bạn tôi với tôi - Ông già chạy chậm. Bạn tôi gắt:
- Chạy nhanh lên chứ, khéo khỉ lắm! Ông già vừa thở vừa đáp:
- Các thầy có kéo xe như tôi, các thầy mới biết.
Bạn tôi nhảy xuống xe toan đánh thằng xe hỗn, nếu tôi không tốt can. Chuyện ấy, đã ba năm.
Bây giờ, chắc ông già ấy đã chết.
Mà làm cái nghề này, sống lâu làm sao được? Chạy suốt ngày. Ăn không đủ. Tấm thân lại dầm mưa dãi nắng...
Người ta nói:
- Quả ở xứ nóng, quả chín sớm. Tôi bảo:
- Người làm cu li xe kéo, người chết non!
(Trích Tôi kéo xe, Tam Lang, NXB Văn học, tr. 18)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định ngôi kể được sử dụng trong đoạn trích. (0,5 điểm)
Câu 2. Tìm những từ ngữ, hình ảnh khắc họạ sự vất vả, khổ cực của những người làm nghề cu li kéo xe được nhắc tới trong văn bản. (0,5 điểm)
Câu 3. Phân tích tác dụng của sự kết hợp các yếu tố miêu tả và trần thuật được sử dụng trong đoạn văn in nghiêng. (1,0 điểm)
Câu 4. Qua văn bản, tác giả thể hiện tình cảm, tư tưởng gì? (1,0 điểm)
Câu 5. Việc tác giả - một nhà báo – chọn trải nghiệm nghề nghiệp của người kéo xe để hiểu và viết về công việc ấy gợi cho anh/ chị những suy nghĩ gì? (1,0 điểm)
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm): Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nhận xét tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Xuôi đò của Nguyễn Bính.
Hôm nay dưới bến xuôi đò,
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau.
Anh đi đấy, anh về đâu,
Cánh buồm nâu... cánh buồm nâu... cánh buồm...
Câu 2. (4,0 điểm): Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc gìn giữ những nét đẹp bản sắc văn hóa dân tộc.
...........
Tải file tài liệu để xem trọn bộ đề cương