Phân tích tác phẩm Thuốc (Dàn ý + 5 mẫu) Những bài văn mẫu lớp 12
Download.vn, xin giới thiệu bài văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn, đây là tài liệu vô cùng hữu ích được chúng tôi đăng tải tại đây.
Thuốc là một trong những tác phẩm nổi bật của Lỗ Tấn, phản ánh hiện thực sâu sắc bi kịch của cách mạng Trung Quốc. Sau đây, là dàn ý và một số bài văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn, mời các bạn cùng tham khảo.
Dàn ý phân tích tác phẩm thuốc
I. Mở bài:
- Tác giả: Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc đầu thế kỉ XX. Ông là một nhà văn tâm huyết, luôn chỉ ra cái “bệnh” của nhân dân để tìm ra phương thuốc chữa trị. Ông được tôn vinh là “linh hồn dân tộc”.
- Truyện ngắn Thuốc là hồi chuông cảnh báo căn bệnh ngu muội của người dân Trung Hoa đầu thế kỉ XX.
II. Thân bài:
1. Ý nghĩa nhan đề “Thuốc” và hình tượng bánh bao tẩm máu người
- Thuốc là chiếc bánh bao tẩm máu người mà người cha đã mua về cho Thuyên ăn:
+ Hiểu theo nghĩa đen: đó là chiếc bánh bao tẩm máu người được cho là có thể chữa khỏi bệnh lao. Đây là một phương thuốc không có cơ sở khoa học, thậm chí lạc hậu, viển vông.
+ Thuốc ở đây còn là phương thuốc điều trị sự u mê, gia trưởng, lạc hậu về mặt khoa học, của nhân dân Trung Quốc lúc bấy giờ.
+ Thuốc ở đây còn là phương thuốc chữa căn bệnh u mê, lạc hậu về mặt chính trị của người dân, sự xa rời quần chúng của những người làm cách mạng.
- Như vậy, chiếc bánh bao tẩm máu không phải là thuốc chữa trị mà là thuốc độc khiến cho những căn bệnh của người dân, người làm cách mạng trở nên trầm trọng hơn.
- Ngay từ nhan đề và hình tượng “bánh bao tẩm máu người” đã thể hiện nỗi đau của tác giả trước nỗi đau của dân tộc.
2. Cái chết của Hạ Du và thái độ của quần chúng
a. Cái chết của Hạ Du
- Hạ Du được giới thiệu thông qua lời của các nhân vật khác:
+ Hạ Du là một chiến sĩ cách mạng tiên phong, dám xả thân vì nhân dân, vì nghĩa lớn.
+ Nhưng không ai đứng về phía anh, không ai hiểu việc làm của anh, kể cả mẹ mình. Anh đơn độc đổ máu vì quần chúng nhưng đổi lại, quần chúng lại lấy máu của chính anh để chữa bệnh lao.
- Nhận xét: Hạ Du là chiến sĩ cách mạng anh dũng nhưng cô đơn. Anh là biểu tượng của cuộc cách mạng Tân Hợi, cuộc cách mạng góp phần đánh đổ chế độ phong kiến nhưng do xa rời quần chúng nên đã thất bại.
b. Thái độ của đám đông quần chúng trước cái chết
- Đám đông chen lấn nhau để xem hành hình chiến sĩ cách mạng Tử Du
- Khi trời sáng hẳn, ở quán trà của lão Hoa, cậu Năm Gù, cả Khang, người râu hoa râm, ... đều bàn tán về cái chết của Tử Du với thái độ miệt thị, khinh bỉ.
- Nhận xét: có thể họ là đám đông mê muội, không hiểu biết về những vấn đề của đất nước, họ “ngủ quên trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”. Lỗ Tấn nhận thấy chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần.
3. Cảnh hai bà mẹ thăm mộ con
- Thời gian nghệ thuật của truyện: cả Hạ Du và Thuyên đều mất vào mùa thu, đến mùa xuân năm sau, trong tiết thanh minh hai người mẹ đến thăm mộ. Cái chết của họ như những chiếc lá mùa thu rời cành để tích nhựa hi vọng. Thể hiện sự lạc quan của tác giả vào tương lai cách mạng, nhận thức nhân dân.
- Hình ảnh con đường mòn phân chia phần mộ thể hiện sự lạc hậu trong tập quán, suy nghĩ của người dân. Hai bà mẹ cùng bước trên con đường ấy thể hiện sự đồng cảm vì tình thương con.
- Hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du: cho thấy đã có người đồng cảm, thấu hiểu Hạ Du, nghĩa là cuộc cách mạng vẫn còn hy vọng. Vòng hoa cũng là sự tiếc thương, trân trọng của Lỗ Tấn đối với người chiến sĩ cách mạng kiên cường.
III. Kết bài:
- Khái quát nghệ thuật: cách viết cô đọng, súc tích, giàu hình ảnh mang tính biểu tượng.
- Qua tác phẩm, nhà văn đã chỉ ra căn bệnh ngu muội của người dân Trung Hoa lúc bấy giờ, nhưng vẫn đặt niềm tin vào tương lai: nhân dân sẽ thức tỉnh, hiểu cách mạng và đi theo cách mạng nhờ phương thuốc điều trị tâm hồn.
Phân tích tác phẩm Thuốc - Mẫu 1
Người nổi tiếng bởi quan điểm: "Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần" không ai khác chính là Lỗ Tấn. Là một nhà thơ tiên phong và là tấm gương noi theo của nhiều thế hệ, Lỗ Tấn đã có sự nghiệp văn nghệ không nhỏ. Ông là người đã khai sinh ra nền văn học cách mạng Trung Quốc. Với phong cách trong nóng ngoài lạnh, các tác phẩm của ông đều để lại những bài học sâu sắc. Và trong đó là "Thuốc".
"Thuốc" được sáng tác vào năm 1919 khi xã hội Trung Quốc là nước thuộc địa nửa phong kiến, các nước đế quốc tranh nhau xâu xé, nhân dân an phận chịu nhục, phong trào Ngũ Tứ nổ ra. Tác phẩm được đăng lần đầu trên Tân thanh niên sau được in trong "Gào thét". "Thuốc" là sự phanh phui về sự u mê lạc hậu của quần chúng, là bức tranh miêu tả bi kịch của người cách mạng tiên phong và là sự đồng cảm, trân trọng ngợi ca của tác giả đối với những người tiên phong ấy. Trong tác phẩm là hai câu chuyện: câu chuyện mùa thu là mua thuốc – ăn thuốc – bàn về thuốc và câu chuyện mùa xuân – hậu quả của thuốc.
Tác phẩm gây ấn tượng đầu tiên bởi nhan đề: "Thuốc". Theo nghĩa thực, nhan đề này chỉ một thứ dược phẩm, thứ thuốc truyền thống chữa bệnh lao: "bánh bao tẩm máu người chết chém" – một thứ thuốc quái đản, mê tín, phản khoa học. Nhưng ý nghĩa nhan đề không dừng lại ở đó. Nhà văn muốn gửi đến người đọc bức thông điệp. Đó là cần phải cảnh tỉnh, cần có một thứ thuốc đặc hiệu để chữa sự u mê, mu muội, vô cảm của quần chúng; chữa trị cho người cách mạng bởi họ chưa thoát khỏi tư tưởng tư sản, còn xa rời, thoát ly quần chúng nhân dân. Với ý nghĩa như vậy nên "thuốc" đã trở thành tác phẩm có tiếng vang lớn thời kỳ này.
Mở đầu bằng câu chuyện lúc "đêm thu gần về sáng", lão Hoa đến pháp trường để mua thứ thuốc "thần dược" về chữa bệnh lao cho con trai độc đinh của lão. Trên đường đi mua thuốc, tâm trạng lão sảng khoái, trẻ lại như được cải tử hoàn sinh. Vì sao ư? Bởi lẽ lão sắp cứu được đứa con trai của gia đình mười đời độc đinh. Thứ "thần dược" ấy chính là chiếc bánh bao tẩm máu người chết chém. Lão để tinh thần vào cái gói bánh ấy nâng niu như đứa con. Mặc dù lúc đầu thái độ của lão còn sợ, run không dám cầm nhưng sau lão sung sướng. Mua được thuốc rồi, lão đem về cho con trai ăn. Chiếc bánh bao ấy được bọc trong lá sen đem nướng. Quái đản như vậy mà vợ chồng lão Hoa vẫn tin tưởng nói với con: "Ăn đi con! Sẽ khỏi ngay". Rồi hai vợ chồng lão lại "trố mắt nhìn con như muốn rót vào người con một cái gì đồng thời cũng muốn lấy ra một cái gì". Không chỉ có vợ chồng lão tin vào thứ thuốc này mà những người đang bàn luận sôi nổi ngoài quán trà kia cũng như vậy. Họ tin nó là một thần dược: "cam đoan thế nào cũng khỏi, nhất định thế nào cũng khỏi, thứ thuốc này đặc biệt lắm"…. Nhưng cuối cùng chiếc bánh bao tẩm máu người tử tù đã không cứu được con trai lão. Bằng câu chuyện này nhà văn đã vạch trần được sự u mê tăm tối mu muội của người dân lao động lúc bấy giờ. Bánh bao tẩm máu người là thứ thuốc quái đản, gây chết người, thứ thuốc độc, phản khoa học. Muốn chữa bệnh lao phải có một thứ thuốc đặc hiệu.
Song song với câu chuyện xung quanh thuốc của gia đình lão Hoa là chuyện người tử tù Hạ Du. Nhân vật này xuất hiện gián tiếp qua lời bàn luận của các nhân vật. Hạ Du là một thanh niên sớm giác ngộ cách mạng, đấu tranh với tư tưởng "thiên hạ Mãn Thanh chính là của chúng ta". Thế nhưng trong mắt mọi người anh chỉ là: "thằng quỷ sứ", "nhãi con", "khốn nạn", "điên"…. Người chú ruột của anh tố cáo cháu mình chỉ để lấy hai mươi lạng bạc. Bác Cả Khang lại coi anh là công cụ bán máu để trục lợi. Lão Nghĩa cũng chỉ tiếc cái áo. Còn đối với vợ chồng lão Hoa, anh là phương thuốc chữa bệnh cho con trai họ. Tất cả con mắt mọi người đều cho anh là giặc, chết là phải. Một cán bộ cách mạng, một con người đi theo lý tưởng của cách mạng mà lại bị coi là giặc trong cái xã hội mà chính anh bảo vệ. Một nghịch lý đáng nực cười của cái xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Hình ảnh người tử tù Hạ Du đã tố cáo gay gắt tình trạng tê liệt, u mê của quần chúng về chính trị, chỉ rõ sự xa rời thoát ly quần chúng của người cách mạng, khẳng định đất nước Trung Quốc lúc bấy giờ là một con bệnh thập tử nhất sinh, cần có thứ thuốc để chữa trị, tránh nạn vong quốc.
Cuối tác phẩm là con đường mòn ở nghĩa địa. Cả hai bên "mộ dày khít, lớp này lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ". Những người chết oan giống con trai lão Hoa và những người phải đổ máu giống Hạ Du đều đã hy sinh tính mạng chỉ vì tập quán, lối suy nghĩ ấu trĩ, mê muội và lạc hậu. Suy nghĩ ấy như con đường mòn nơi nghĩa địa kia. Nhưng thật kì diệu, con đường mòn ấy đã bị xóa bỏ bởi bà Hoa đã sang an ủi mẹ của Hạ Du. Chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du vừa là tấm lòng của tác giả dành cho người liệt sĩ, vừa là sự gửi gắm niềm tin. Một kết thúc có hậu cho tất cả sự hi sinh. Máu của người chiến sĩ đã thức tỉnh được một bộ phận quần chúng, có người đã hiểu cái chết vinh quang của họ và nguyện đi theo họ.
Khép lại truyện ngắn, Lỗ Tấn không khỏi khiến người đọc thôi băn khoăn. Nghĩ về cái xã hội Trung Quốc thời kỳ bấy giờ. Câu chuyện không chỉ đơn thuần là truyện mà còn là bức thông điệp, bài học lịch sử mà Lỗ Tấn muốn gửi gắm. Câu truyện đã đến với người đọc nhờ giá trị nội dung sâu sắc ấy.
Phân tích tác phẩm Thuốc - Mẫu 2
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, dưới ách thống trị tù túng, ngột ngạt của triều đại Mãn Thanh, cùng với sự can thiệp thô bạo của đế quốc, đất nước Trung Hoa rơi vào cảnh khủng hoảng, suy thoái hết sức trầm trọng. Bầu trời chính trị u ám, rối ren đã gieo rắc nỗi bất an, lo sợ vào tâm trí mỗi người dân Trung Quốc khi ấy, khiến họ chìm sâu vào u mê, ngu muội “ngủ quên trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”. Thuốc của nhà văn Lỗ Tấn là một bức tranh hiện thực đầy bi kịch về số phận những người cách mạng, vạch trần “căn bệnh tinh thần” của quần chúng, nhân dân.
Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc những năm thế kỷ XX. Quê hương ông ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Thuở nhỏ chứng kiến người cha lâm bệnh, vì không có thuốc mà chết, ông ôm ước mơ trở thành thầy thuốc. Khi đang theo đuổi con đường lương y, ông đột ngột rẽ hướng để làm một nhà văn bởi ông cho rằng “chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần”. Trong các tác phẩm của mình ông không ngại thẳng thắn phanh phui những thói hư, tật xấu của quần chúng, để tìm ra “phương thuốc chạy chữa”, để tự mình vươn lên, để làm nên một dân tộc tự lực, tự cường. Trong toàn bộ những sáng tác của mình, Lỗ Tấn tập trung khai phá những căn bệnh tinh thần khiến cho nhân dân mê muội, tự thỏa mãn và dần tha hóa, ngòi bút sắc sảo cùng với thái độ tự phê phán nghiêm khắc của mình nhà văn đã tạo nên những tác phẩm rất sâu sắc và thấm đậm tính nhân văn. Thuốc được viết năm 1919 đúng vào phong trào chống đế quốc phong kiến, đòi tự do dân chủ của học sinh, sinh viên Bắc Kinh bùng nổ. Nói về căn bệnh “đớn hèn” của quần chúng và những người cách mạng thì lại xa rời nhân dân. Tác phẩm như hồi chuông cảnh báo: “Người Trung Quốc cần suy nghĩ nghiêm túc về một phương thuốc để cứu lấy dân tộc”.
Mở đầu tác phẩm, Lỗ Tấn đã gây ấn tượng trong lòng người đọc bằng một nhan đề hết sức ngắn gọn và súc tích: “Thuốc”. Không bằng những từ hoa mỹ hay cầu kỳ nhưng nhan đề đã đã nói lên được giá trị cốt lõi của tác phẩm với nhiều tầng nghĩa khác nhau. “Thuốc” ở đây có thể hiểu theo nghĩa thực trần trụi của nó – một chiếc bánh bao tẩm máu người chết chém. Máu người có thể chữa bệnh ho lao? Sao lại có một lối suy nghĩ vừa quái dị, lạc hậu, mê tín và cực kỳ phản khoa học đến thế! Nhà văn liên tưởng đến cái chết của cha, cũng do một ông thầy lang đã bốc để chữa bệnh phù thủng, là rễ cây mía đã kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực, con cái dẫn đến cái chết của ông cụ. Cách chữa bệnh bằng những bài thuốc mê tín của người dân, đã phần nào khắc hoạ được cho người đọc thấy một xã hội Trung Quốc u mê, dốt nát lúc bấy giờ.
Nhan đề tác phẩm không chỉ dừng lại ở nghĩa tường minh mà còn mang nghĩa hàm ẩn sâu sắc tác giả khéo léo gửi gắm vào đó. “Thuốc” dùng để chữa căn bệnh tinh thần: Căn bệnh gia trưởng, căn bệnh mê muội, lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc. Bố mẹ thằng Thuyên vì thiếu hiểu biết và gia trưởng đã tự mình áp đặt cho đứa con một phương thuốc thật kinh dị là “chiếc bánh bao tẩm máu người”. Khi cái chết đang trực chờ, họ lại đặt sự sống con mình vào ngõ cụt, có lẽ Thuyên đã sống sót nếu như được chữa trị đúng cách bởi vì lao là một căn bệnh hoàn toàn có thể chữa khỏi. Đáng buồn thay không chỉ vợ chồng lão Hoa mà tất cả mọi người trong quán trà đều tin vào điều phi lý ấy. Bánh bao tẩm máu người chẳng phải thần dược như những kẻ ngu muội kia đang đặt hy vọng, mà nó chính là phương thuốc “độc” giết chết đi một mạng người, thế nhưng họ đặt hết niềm tin vào những điều viễn vọng, nhưng sẽ điều không bao giờ xảy ra ấy.
Đất nước Trung Hoa đang nguy khó hơn bao giờ hết, ngay từ trong chính quần chúng nhân dân, họ đang mắc phải một căn bệnh tưởng chừng như nguy kịch không thể cứu chữa “u mê, lạc hậu về chính trị”. Người dân nô nức đi xem một chiến sĩ cách mạng bị xử tử, họ cho rằng đó là kẻ điên, là giặc và sẵn sàng mua máu anh về làm thuốc. Người anh hùng dám dấn thân vào sự nghiệp bảo vệ đất nước, anh sẵn sàng hy sinh để cho người dân được hưởng tự do, độc lập. Ấy vậy mà khi anh nằm xuống, những con người ngu muội kia lại chẳng hề xót thương, trân trọng. Lỗ Tấn đã chỉ ra căn bệnh của nhân dân và cái sai của người làm cách mạng, họ xa rời nhân dân, không lấy nhân dân làm gốc, chính bởi lẽ đó đã làm cho đất nước ngày càng chìm sâu vào bế tắc, người dân thì u mê trong lối suy nghĩ tầm thường, lạc hậu. Có thể nói nhan đề “Thuốc” đã gói trọn hết hiện thực xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ, là chủ đề tư tưởng bao trùm cả tác phẩm, nó nói lên nỗi trăn trở, xót xa của tác giả trước tình cảnh đất nước lâm nguy: Người dân không gắn bó với cách mạng, còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”.
Tác giả dẫn dắt người đọc đến với câu chuyện vào “một đêm mùa thu” khi trời đã nhá nhem sáng, ngoài đường lúc này thật vắng lặng, ảm đạm không một bóng người “ngoài những giống đi ăn đêm, còn thì ngủ cả”. Lão Hoa dậy từ sớm, rời khỏi nhà từ lúc mặt trời còn chưa mọc đến pháp trường với hy vọng tìm được thứ thần dược cứu đứa con từ cõi chết trở về. Lão bước đều đều trên con đường tối om lạnh lẽo, lòng sảng khoái lạ lùng, lão thấy mình như trẻ lại và “ai cho phép thần thông cải tử hoàn sinh”. Chẳng phải tự nhiên mà lão Hoa lại vui mừng đến thế, bởi lão nghĩ tới thằng Thuyên ở nhà sắp được cứu sống, đứa con trai duy nhất “mười đời độc đinh” đang mắc căn bệnh lao. Tới pháp trường, khi được tận mắt thấy trông thấy thứ “thần dược” ấy lão thật sự sợ hãi không dám đưa tay ra cầm lấy “chiếc bánh bao nhuốm máu, đỏ tươi” đang nhỏ từng giọt, từng giọt ấy.
Phân tích tác phẩm Thuốc - Mẫu 3
Lỗ Tấn (1881 – 1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, ông là nhà văn cách mạng thế hệ đầu tiên có phương châm và mục đích sáng tác đúng đắn là dùng ngòi bút để phanh phui các “căn bệnh tinh thần của quốc dân” – một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho xã hội Trung Quốc trở nên trì trệ và suy thoái. Sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn gồm 3 tập truyện ngắn, 16 tập tạp văn với các đề tài chính trị, xã hội, văn chương… ông xứng đáng là ngọn cờ đầu của văn học Trung Quốc hiện đại.
Truyện ngắn Thuốc sáng tác năm 1919 là tác phẩm thể hiện khá rõ những băn khoăn, day dứt của Lỗ Tấn trước những vấn đề quan trọng của xã hội Trung Quốc đương thời. Tác giả phê phán sự lạc hậu, mê muội đáng thương của số đông dân chúng và thái độ xa rời thực tế xa rời quần chúng của những người khởi xướng và tham gia cuộc cách mạng Ngũ Tứ lúc bấy giờ. Đồng thời ông cũng gửi gắm trong truyện niềm hi vọng vào tương lai Trung Quốc sẽ có một cuộc cách mạng triệt để của quần chúng và vì quần chúng. Bối cảnh của truyện là xã hội tăm tối, ngột ngạt dưới ách thống trị của triều đình Mãn Thanh trước khi nổ ra phong trào cách mạng Ngũ Tứ – sự kiện mở đầu cho lịch sử Trung Quốc hiện đại.
Sự xâm chiếm và can thiệp thô bạo của một số đế quốc như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật đã biến Trung Quốc thành một nước nửa phong kiến, nửa thuộc địa. Thời vàng son của các triều đại vua chúa đã ở vào dĩ vãng. Thay vào đó là một xã hội đình trệ, suy thoái mà theo nhận định của Lỗ Tấn: So với tiến bộ thì đình trệ cũng gần với con đường diệt vong rồi.
Nội dung truyện xoay quanh chủ đề Thuốc – một thứ “thuốc” kinh khủng, gớm ghiếc hiếm có xưa nay. Đó là bánh bao tẩm máu tươi của những kẻ tử tù bị chém đầu, đem nướng lên cho người bệnh ăn. Thiên hạ đồn rằng thứ thuốc ấy chữa khỏi được cả những bệnh thuộc “tứ chứng nan y” như phong, lao, cổ, lại. Vợ chồng lão Hoa chủ quán trà gom góp số tiền tích cóp đã lâu và lão Hoa đích thân đến tận pháp trường để mua “thuốc” cho con trai bị bệnh lao nặng, với hi vọng là nó sẽ khỏi bệnh. Nhưng đau xót thay, máu của tử tù chết chém không chữa được bệnh lao! Thế là tiền mất tật mang, cuối cùng đứa con trai độc đinh của vợ chồng lão Hoa vẫn chết.
Ngòi bút của Lỗ Tấn đã đề cập tới một vấn đề đáng lo ngại là tập quán chữa bệnh phản khoa học – một trong những biểu hiện của tình trạng lạc hậu về mặt khoa học ở Trung Quốc, cũng như trong đời sống tinh thần của dân chúng mà nhân vật Thuyên chỉ là một trong muôn ngàn nạn nhân của tập quán hủ lậu ấy.
Tuy nhiên, Lỗ Tấn còn kín đáo gửi gắm dụng ý của mình trong nghĩa hàm ẩn của truyện. Con bệnh trầm kha không phải là anh chàng Thuyên tội nghiệp mà lò đầu óc mê muội của vợ chồng lão Hoa nói riêng và số đông dân chúng nói chung. Theo nhận xét của tác giả thì cả xã hội Trung Quốc thời ấy giống như một người mắc bệnh nặng, đòi hỏi phải có một thứ “thuốc” đặc trị thì mới có thể chữa khỏi; đồng thời ông cũng chỉ ra rằng con đường đi của dân tộc Trung Hoa lúc này đã lâm vào ngõ cụt, cần phải nhanh chóng phát quang mọi con đường mới.
Truyện ngắn Thuốc giống như một vở kịch ngắn gồm bốn cảnh:
Cảnh thứ nhất: Lão Hoa mang tiền đến pháp trường để mua chiếc bánh bao tẩm máu tử tù.
Cảnh thứ hai: Vợ chồng lão Hoa cho con trai (Thuyên) ăn bánh bao tẩm máu nướng.
Cảnh thứ ba: Khách khứa tụ tập bàn tán ở quán trà lão Hoa.
Cảnh thứ tư: Tiết Thanh minh, mẹ Thuyên ra thăm mộ con, tình cờ gặp mộ của tử tù bữa trước.
Mở đầu tác phẩm, tác giả tả cảnh lão Hoa chủ quán trà dậy thật sớm, bảo vợ đưa tiền để đến pháp trường mua chiếc bánh bao tẩm máu tử tù về làm thuốc chữa bệnh lao cho đứa con trai duy nhất. Lỗ Tấn có cách kể chuyện xen miêu tả rất tự nhiên, sinh động. Nhiều chi tiết nhỏ nhưng lại có tác dụng kết nối, tạo mạch cho câu chuyện tiếp diễn theo trình tự thời gian. Chẳng hạn tràng ho không dứt của thằng Thuyên như thúc giục lão Hoa nhanh chóng lên đường lúc trời chưa sáng; hay lòng thương con và niềm hi vọng con sẽ khỏi bệnh khiến cho lão Hoa bước nhanh hơn.
Lão Hoa mê muội tin vào thứ thuốc chữa bệnh lao quái dị: bánh bao tẩm máu tử tù nên cố lách vào đám đông hỗn độn đang xô đẩy nhau ào ào để mua cho bằng được thứ mà lão coi như thuốc tiên, cổ thể cứu mạng đứa con trai của mình. Thứ “thuốc” đáng sợ và hiếm có ấy được rao bán như bán các món hàng bình thường khác. Ngòi bút tả thực sắc sảo của Lỗ Tấn khiến người đọc cảm thấy như cảnh tượng hãi hùng ấy đang diễn ra trước mắt.
Có một chi tiết mang ý nghĩa ẩn dụ là không phải chỉ một mình lão Hoa vội vàng đi mua bánh bao tẩm máu tử tù để chữa bệnh mà rất nhiều người khác cũng có ý định như lão. Qua chỉ tiết này, Lỗ Tấn muốn nói đến thực trạng đáng lo ngại: số đông dân chúng Trung Quốc đương thời vẫn tin vào những điều nhảm nhí không có cơ sở khoa học, bởi thói mê tín dị đoan đã tiêm nhiễm vào đầu óc họ, trở thành một căn bệnh tinh thần khó chữa.
Ở cảnh hai, niềm hân hoan, tin tưởng và hy vọng của lão Hoa mỗi lúc một dâng cao. Về đến nhà, lão cùng với vợ vội vàng chế biến “thuốc cải tử hoàn sinh” rồi cho con trai ăn chiếc bánh bao tẩm máu nướng đen thui. Thuyên cầm chiếc bánh lên nhìn, có cảm giác rất lạ không biết thế nào mà nói, như đang cầm tính mệnh của chính mình trong tay. Y bẻ đôi ra, rất cẩn thận…
Không bao lâu, chiếc bánh đã nằm gọn trong bụng… Lão Hoa đứng một bên, bà Hoa đứng một bên, trố mắt nhìn con như muốn rót vào người con một cái gì, đồng thời cũng muốn lấy ra một cái gì.
Tác giả đã thể hiện tài tình diễn biến tâm trạng của từng nhân vật trong đoạn văn này. Cha mẹ Thuyên nhìn con ăn chiếc bánh bao mà lòng khấp khởi hy vọng, tin rằng con sẽ nhanh chóng khỏi bệnh. Họ muốn rót vào người con sự sống, đồng thời cũng muốn lấy ra căn bệnh lao đáng sợ mà người đời đã liệt vào hàng “tứ chứng nan y”, ai mắc phải là cầm chắc cái chết. Vợ chồng lão Hoa là những nhân vật vừa đáng thương vì tình phụ tử, mẫu tử của họ thật cảm động, nhưng lại vừa đáng giận bởi họ mê tín đến ngu muội.
Hình ảnh đám đông trong quán trà của lão Hoa cũng phản ánh rất chân thực về “căn bệnh tinh thần” của người trung Quốc. Quán trà lão Hoa là nơi tụ họp thường xuyên của khách bình dân. Tại đây, lượng thông tin chẳng những rất phong phú mà còn rất thật.
Khách uống trà gồm một người râu hoa râm, cậu Năm Gù, bác cả Khang, một anh chàng hơn hai mươi tuổi… và một số người khác. Họ là những người thuộc số đông dân chúng Trung Quốc lúc bấy giờ. Quán trà của lão Hoa giống như xã hội Trung Quốc thu nhỏ.
Đám khách uống trà bàn tán xoay quanh hai sự kiện nóng hổi: Thứ nhất là chuyện lão Hoa mua được “thần dược”; thứ hai là chuyện Hạ Du bị chết chém. “Thuốc tiên” để trị “bệnh quỷ” mà người Trung Quốc vẫn tôn sùng lúc bấy giờ chính là bánh bao tẩm máu tử tù. Bánh bao thì luôn luôn có sẵn, nhưng còn máu tử tù ? Máu tử tù không sẵn nhưng cũng không phải là hiếm, chì cần có tiền là mua được, nhất là vào đúng dịp có tử tù bị chém. Lão Hoa có con mắc bệnh lao nặng, may mắn gặp ngay dịp Hạ Du bị chém đầu. Cho nên hôm ấy ở quán trà nhà lão Hoa, người ta chỉ bàn đến hai chuyện ấy cũng là điều dễ hiểu, vấn đề quan trọng ở đây là thái độ của họ trước hai sự kiện này ra sao ?
Về sự kiện thứ nhất, mọi người đều mừng cho lão Hoa đã may mắn mua được “thần dược” và họ đặt niềm tin tuyệt đối vào phương thuốc kỳ quái ấy. Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà có tới sáu lần nhắc lại câu: Cam đoan thế nào cũng khỏi, giống lời khẳng định chắc chắn như đinh đóng cột.
Về sự Kiện thứ hai, mọi người đều tỏ thái độ khinh bỉ, dè bỉu và dùng những lời lẽ xấu xa nhất để gọi Hạ Du: tên phạm, thằng quỷ sứ, thằng nhãi con, thằng khốn nạn… Họ coi anh là giặc, là dám vuốt râu cọp, là điên. Họ cho rằng anh bị chém đầu là đích đáng. Họ hả hê như chính mình vừa trừ khử được một kẻ tội đồ. Khi nghe kể đến đoạn Hạ Du bị lão Nghĩa quản ngục đánh cho hai cái bạt tai vì dám rủ lão “làm giặc” thì họ thú quá, cứ nhao nhao nói nói cười cười. Trong khi đó, họ lại xuýt xoa khen cụ Ba đã sáng suốt đêm nộp cháu mình cho nhà chức trách, vừa không bị mất đầu vì chứa chấp một tên phản nghịch, vừa được thưởng hai mươi lạng bạc.
Qua cuộc bàn luận của đám đông ở quán trà, Lỗ Tấn khéo léo phơi bày thực trạng tinh thần u mê tăm tối của phần lớn dân chúng Trung Quốc thời đó. Cách mạng Tân Hợi là một cuộc cách mạng không triệt để. Người dân chưa được tuyên truyền, giác ngộ nên họ coi những người làm cách mạng là làm giặc”. Họ càng không hiểu gì về mục đích cao cả của cách mạng.
Lỗ Tấn nhận thức rất rõ “căn bệnh tinh thần” của người Trung Hoa đã đến mức trầm trọng. Đã đến lúc phải khẩn cấp tìm ra một phương thuốc “đặc hiệu” để chữa trị căn bệnh ấy. Nhưng đó là phương thuốc nào?
Lúc này, cách mạng Trung Quốc đang dò dẫm tìm đường, Lỗ Tấn cũng đang tìm đường, ông chưa thể đưa ra một giải pháp chính xác, nhưng ông đã dự cảm được một điều gì đó. Dự cảm ấy phần nào được thể hiện qua hình tượng nhân vật Hạ Du.
Hạ Du tuy không được tác giả miêu tả trực tiếp nhưng nhân vật này đóng vai trò quan trọng là mắt xích tiên kết toàn bộ câu chuyện và chi phối các sự kiện trong tác phẩm. Hạ Du là một chiến sĩ cách mạng có ý chí kiên cường, dám chấp nhận thử thách, hi sinh. Đến phút chót anh vẫn tuyên truyền cách mạng. Hạ Du bộc lộ nỗi đau xót trước tình trạng mê muội của dân chúng. Nhưng thật đáng buồn là ý chí, mục đích và hành động của anh lại bị mọi người hiểu một cách sai lạc. Cụ Đa là người thân cho rằng anh “làm giặc” nên đã tố giác anh để lấy tiền thưởng. Dân chúng thì chờ anh bị chém đầu để lấy máu anh tẩm vào bánh bao làm thuốc chữa bệnh. Với những tôn đao phủ tàn bạo, tham lam thì máu Hạ Du là một món hàng đem lại lợi nhuận béo bở. Với đám đông dân chúng, Hạ Du là đối tượng để cho họ chế giễu và khinh bỉ. Thậm chí đến cả mẹ anh cũng không hiểu đúng về con trai mình.
Phân tích tác phẩm Thuốc - Mẫu 4
Lỗ Tấn một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Trung Quốc. Ông chủ trương lấy tác phẩm của mình để chữa trị căn bệnh tinh thần cho người dân Trung Hoa lúc bấy giờ. Thuốc là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, được sáng tác năm 1919 khi cuộc vận động Ngũ Tứ bùng nổ.
Tác phẩm có nhan đề là Thuốc, đồng thời đây cũng là hình tượng trung tâm được phản ánh trong tác phẩm. Thuốc ở đây chính là chiếc bánh bao tẩm máu người tử tù mà lão Hoa ra pháp trường mua bằng tất cả số tiền dành dụm được để mang về chữa bệnh cho con trai. Chiếc bánh bao này, trong quan niệm lúc bấy giờ của người Trung Hoa là phương thuốc hữu hiệu và đắc dụng nhất để chữa căn bệnh lao nguy hiểm. Từ quan điểm đó đã cho thấy sự cổ hủ, lạc hậu và mê tín mù quáng của những con người thiếu hiểu biết. Đồng thời cũng cho người đọc thấy, đó chính là hình ảnh đất nước Trung Quốc đình đốn, trì trệ lúc bấy giờ và đặt ra vấn đề cần phải chống lại căn bệnh mê tín dị đoan đã ăn sâu vào suy nghĩ của những người thiếu hiểu biết. Nhưng bên cạnh đó, Lỗ Tấn còn muốn đề cập đến phương thuốc chữa bệnh tinh thần cho người dân Trung Hoa: đầu tiên là căn bệnh gia trưởng, u mê, lạc hậu về mặt khoa học. Đặt ra vấn đề người Trung Quốc cần phải tỉnh táo, không được tiếp tục ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ như vậy nữa. Chữa căn bệnh thứ hai là căn bệnh u mê lạc hậu về mặt chính trị của người dân Trung Quốc. Và căn bệnh cuối cùng là căn bệnh xa rời quần chúng của người cách mạng đương thời. Qua đó, Lỗ Tấn đã làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm là nỗi đau của đất nước Trung Quốc đương thời: Nhân dân đang ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ , u mê lạc hậu về khoa học, về chính trị, còn người chiến sĩ cách mạng bôn ba trong chốn quạnh hiu, không được sự trợ giúp từ các lực lượng xã hội khác. Như vậy, bằng một nhan đề hết sức ngắn gọn, chỉ có một từ duy nhất nhưng đã khái quát, nói lên những vấn đề lớn của tác phẩm.
Bên cạnh đó, để làm nổi bật và rõ hơn quan điểm, chủ đề mà tác giả gửi gắm ta cũng không thể không nói đến sự xuất hiện của các nhân vật trong tác phẩm. Trước hết là sự xuất hiện của nhân vật đám đông, họ xuất hiện lần đầu tiên vào buổi sáng sớm, ở pháp trường, khung cảnh diễn ra vô cùng náo loạn, họ xô đẩy, chen lấn nhau khiến lão Hoa thiếu chút nữa đã ngã. Trong họ mang niềm phấn khích tột cùng, háo hức đến xem cảnh hành hình người chiến sĩ cách mạng Hạ Du. Lần thứ hai đám đông được tác giả khắc họa khi trời đã sáng hẳn, lúc này không gian có sự thay đổi, từ pháp trường dịch chuyển về quán trà của lão Hoa, họ bàn tán , bình luận về người tử tù, về cái chết của tử tù, về những việc Hạ Du đã làm mà họ được nghe kể lại, họ cho rằng Hạ Du là điên, là khốn nạn; về việc cụ Ba tố cáo cháu mình để nhận tiền thưởng, thì họ lại cho rằng hành động của cụ Ba là vô cùng khôn ngoan; cuối cùng là về việc lão Hoa nhanh chóng, kịp thời nắm bắt cơ hội mua máu của Hạ Du để tẩm bánh bao chữa bệnh cho thằng Thuyên, và đám đông cho rằng lão Hoa là một kẻ biết làm ăn và may mắn. Qua những điều họ bàn tán, họ nhận xét, ta có thể thấy rằng họ là những kẻ hết sức mê muội, ngu ngốc về thực trạng của đất nước, ngu dốt, mê tín khi cho rằng bánh bao tẩm máu người có thể chữa bệnh. Đây chính là căn bệnh tinh thần ghê gớm, khủng khiếp hơn cả căn bệnh lao, đang gặm nhấm người dân Trung Quốc, khiến họ mất hết ý chí, mụ mị, và ngu muội hơn.
Thứ hai là nhân vật Hạ Du, mặc dù chỉ xuất hiện gián tiếp trong tác phẩm nhưng cũng là một nhân vật đáng lưu tâm, một con người mới, con người khác trong xã hội đầy ngu muội lúc bấy giờ. Hạ Du là một chiến sĩ cách mạng, là người có tinh thần yêu nước nồng nàn: “Rủ đề lao làm giặc”. Không chỉ vậy, Hạ Du còn tuyên truyền với lão Nghĩa mắt cá chép: “Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta”. Và mang trong mình lí tưởng lật đổ ngai vàng, đánh đổ ngoại tộc và muốn giành lại độc lập, chủ quyền. Trong một xã hội mà mọi người đều mắc căn bệnh tinh thần, u mê trước vấn đề xã hội thì những suy nghĩ của Hạ Du là vô cùng mới mẻ, tiến bộ và đáng trân trọng. Nhưng trong một xã hội mà chỉ có một mình Hạ Du có tư tưởng tân tiến, tất yếu sẽ nhận kết cục không hề tốt đẹp. Vì mang trong mình những suy nghĩ khác mọi người nên anh là kẻ cô đơn trong công việc cách mạng cao cả, bởi chẳng ai hiểu những lí tưởng cao đẹp, những hành động anh dũng của anh. Đối với họ mọi suy nghĩ, lí tưởng của anh là điên rồ, ngu ngốc. Bởi vậy, khi anh chết, đám đông bàn tán về cái chết của anh, về việc anh làm; lão Nghĩa đánh vì anh rủ lão làm giặc; đặc biệt ngay cả những người thân trong gia đình cũng không hiểu anh, cụ Ba đưa cháu ra đầu thú, mẹ anh xấu hổ khi đến thăm mộ con. Cả cuộc đời anh là chuỗi bi kịch đau đớn. Hạ Du hiện lên là hình ảnh tượng trưng của cuộc cách mạng Tân Hợi, của những người chiến sĩ đi tiên phong trong cách mạng đương thời.
Cuối tác phẩm là khung cảnh nghệ thuật vô cùng đặc sắc, hai bà mẹ đi thăm mộ con. Ở đây có sự dịch chuyển thời gian nghệ thuật từ đêm mùa thu năm trước đến mùa xuân năm sau: Mùa thu vốn gợi sự tàn lụi, héo úa, về câu chuyện về cái chết của Hạ Du. Còn mùa xuân lại gợi sự hồi sinh, gắn với câu chuyện mọi người quay lại nhìn nhận về người chiến sĩ cách mạng Hạ Du, câu chuyện về hai bà mẹ đi thăm mộ con, câu chuyện về vòng hoa bất ngờ xuất hiện trên mộ Hạ Du. Không gian nghệ thuật là hình ảnh con đường mòn phân chia ranh giới: một bên là khu mộ dành cho người nghèo, một bên là khu mộ dành cho người chết chém. Đây là biểu tượng cho một tập quán xấu đã thành thói quen. Hình ảnh bà mẹ thằng Thuyên đã chủ động bước qua ranh giới của con đường mòn để đến an ủi bà mẹ Hạ Du. Bước chân đó không chỉ đơn thuần là một hành động, mà nó là bước chân dám vượt qua định kiến để gặp gỡ nhau trong sự đồng cảm và chia sẻ. Bên cạnh đó hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du, khiến cho người mẹ của Hạ Du ngạc nhiên, thảng thốt và rất đỗi vui mừng, bây giờ bà mới bắt đầu hiểu được công việc có ý nghĩa cao cả của con mình. Đồng thời bó hóa đó cũng thể hiện thái độ trân trọng của tác giả, của hậu thế đối với người chiến sĩ cách mạng đi tiên phong; niềm tin vào tương lai, tiền đồ của cách mạng.
Phân tích tác phẩm Thuốc - Mẫu 5
Văn học Trung Quốc không chỉ nổi bật với những tác phẩm thơ hay của Đỗ Phủ, Lý bạch mà còn có cả những tác phẩm văn xuôi khiến cho người đọc yêu thích. Tiêu biểu trong đó là truyện Thuốc của Lỗ Tấn. Ông không chỉ là một thầy thuốc chữa bệnh cơ thể mà ông còn là một thầy thuốc chữa bệnh tinh thần cho người Trung Quốc rất giỏi. Và chính vì thế tác phẩm thuốc kia chính là đơn thuốc mà ông muốn gửi đến những người Trung Quốc. Có thể thấy ông chữa bệnh tinh thần bằng sức mạnh truyền đạt của văn chương.
Nhan đề của tác phẩm chỉ gồm một chữ thuốc nhằm thể hiện lên sự quan trọng của phương thuốc chữa bệnh tinh thân cho người Trung Quốc. Nhan đề nhắc đến Thuốc trong tác phẩm cũng nhắc thuốc thế nhưng một phương thuốc được coi là ngộ nhận và sự u muội của nhân dân Trung Hoa còn viên thuốc kia lại là phương thuốc mà tác giả đã kỳ công kê đơn để chữa bệnh cho những người u muội ấy.
Nhà văn của chúng ta quyết định học y thuật bởi vì hồi nhỏ cha ông bị bệnh. Một tên lang băm đã kê nhầm đơn thuốc cho cha của ông cho nên cha ông bệnh nặng hơn mà chết. Chính vì thế mà ông muốn trở thành thầy thuốc để biết y thuật cứu giúp con người. Trong một lần đang học y bên Nhật ông vô tình đọc được tình trạng u muôi của nhân dân nước mình nên ông quyết định không học nữa mà quay về nước làm văn làm ra phương thuốc tinh thần để trị căn bệnh tinh thần kia.
Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh ông bà Hoa Thuyên giục nhau đi lấy thuốc về cho con trai độc đinh của ông bà. Ông Hoa Thuyên phải dậy từ rất sớm để đi lấy khi ấy mặt trời còn chưa ló, màn sương vẫn dày nhưng tâm trạng của ông Hoa Thuyên không thấy ngại khó gì cả. Vì tới đây vị thuốc kia sẽ đem lại sự sống cho con trai của ông. Sẽ làm mọi thứ thay đổi, từ một người sắp chết có thể thành một người sống lâu. Hai ông bà chỉ có một người con trai duy nhất vì vậy cho nên cứu được người con trai ấy chẳng khác nào cứu chính bản thân ông bà. Ông đi đến và đem thuốc về, không biết vị thuốc nào mà lại có thể chữa cho người bệnh tử cõi chết trở về. Đó chính là bánh bao tẩm máu tử tù. Lão Hoa Thuyên khép nép đưa tiền và nhận lại chiếc bánh bao tẩm máu người, máu vẫn còn nhỏ giọt. ở trên đời này làm gì có bài thuốc nào như thế, ho lao ăn bánh bao tẩm máu người tử tù là hết bệnh.
Lão Hoa Thuyên đem về nhà cho con trai độc đinh của mình mắc bệnh lao ăn. Bà Hoa Thuyên gọi con trai dậy không dấu được sự vui mừng. Hai ông bà tin rằng khi ăn xong chiếc bánh bao ấy chắc có lẽ con bà cũng khỏi bệnh mà sống lâu chăm sóc mình. Những người trong quán trọ cũng mừng cho gia đình lão Hoa Thuyên. Họ còn bàn tán về người tử tù kia, đó chính là Hạ Dư. Những người trong quán trọ nói anh chiến sĩ cộng sản kia là người phản động để bị chết. Rồi người chú ruột của anh ta thì đem chuyện anh ta đi làm chiến sĩ cộng sản để rồi nhận được số tiền thưởng từ Nhật. Có thể nói hình ảnh người anh hùng Hạ Du hiện lên trong vai trò của người tử tù và nhân dân Trung Quốc ngu muội cho đó là thích đáng lắm. ở đây ta thấy rõ sự xa rời giữa quần chúng nhân dân với những cán bộ Đảng và chiến sĩ cộng sản. Ngày xưa ông cha trị nước cũng phải hợp với lòng dân thế mà ngày nay khi đánh Nhật họ lại không gần gũi với người dân thì làm sao có thể thành công được. Nhà văn đã nhìn ra sự sai lầm ấy, căn bệnh của nhân dân Trung Hoa là bị làm cho ngu muội tin rằng chiếc bánh bao tẩm máu kia là phương thuốc thần tiên để chữa bệnh ho lao. Rồi người chiến sĩ cộng sản thì quá xa rời quần chúng cho nên phải nhận cái kết cục ấy. Có thể nói chính những sai lầm ấy khiến cho cách mạng Trung Quốc vẫn chưa thành công. Hạ Du đại diện cho những người chiến sĩ cộng sản yêu nước, căm thù giặc. Còn ông bà Hoa Thuyên cùng những người trong quán trà ấy đại diện cho nhân dân Trung hoa lúc bấy giờ.
Thế rồi cuối cùng phương thuốc được coi là quý giá kia có cứu được con trai của ông bà Hoa Thuyên không. Hình ảnh bà mẹ của người con trai ấy đi đến nghĩa trang thì chúng ta cũng đủ biết kết cục như thế nào rồi. Nhà văn đã đặc biệt miêu tả hình ảnh nghĩa trang của những người nơi đây. Nó cũng phần nào thể hiện cho thấy được sự xa rời của những người cộng sản với những người nhân dân. Nghĩa trang cũng được chia ra làm hai một bên là mộ của những người chết vì theo cách mạng một bên là mộ của những người dân mắc bệnh ho lao. Có hai người đàn bà trên nghĩa trang ấy, một là mẹ của Hạ Dư, một là bà Hoa Thuyên. Hai người đến thăm mộ con khóc lóc rồi ra về. Hai người bước đến bên nhau thể hiện sự đồng cảm giữa những người mẹ. Không những thế con đường chia đôi kia ngăn cách người tử tù và người chết bệnh giờ đây được xóa đi bởi hai người đàn bà ấy dường nhận ra điều gì ngoài cùng là mẫu tử thiêng liêng. Hai người bước bên nhau thể hiện sự gần gũi của những người cách mạng và những người dân thường. Hai người phụ nữ ấy chính là hình ảnh mà nhà văn gửi gắm phương thuốc chữa bệnh cho nhân dân Trung Quốc và những người cách mạng Trung Quốc. Đó là phải gần gũi với nhân dân thì cách mạng mới có thể thành công được. Ông chú Hạ Du đi tố cháu mình một phần vì tiền thưởng nhưng cũng có thể do không hiểu hết được công việc của cháu mình cho nên coi đó là việc làm sai trái mà đi báo quan thôi. Chính vì thế những con người Trung Quốc cần phải đoàn kết đồng lòng với nhau mới có thể đưa cách mạng đi đến những ngày thắng lợi được.
.......................
Mời các bạn tải file dưới đây để xem nội dung chi tiết của tài liệu!