Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân 5 Dàn ý & 18 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất (Sơ đồ tư duy)
TOP 18 bài văn Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng hay nhất, kèm theo 5 dàn ý chi tiết, giúp các em thấy rõ diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng Dầu của mình theo giặc tới khi cải chính.
Tất cả những cung bậc, trạng thái cảm xúc phức tạp của ông Hai đã giúp các em cảm nhận được tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến mãnh liệt của những người nông dân xưa. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để học tốt môn Văn 9.
Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện ngắn Làng hay nhất
- Sơ đồ tư duy Phân tích tâm trạng nhân vật ông Hai
- Dàn ý chi tiết diễn biến tâm trạng ông Hai (4 mẫu)
- Dàn ý Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc
- Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện ngắn Làng hay nhất
- Phân tích chuyển biến tâm trạng của ông Hai
- Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện ngắn Làng (12 mẫu)
- Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc
- Phân tích và chứng minh diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo giặc
- Phân tích và chứng minh diễn biến tâm trạng tinh tế và sinh động của ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo giặc
- Đoạn văn phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai
Sơ đồ tư duy Phân tích tâm trạng nhân vật ông Hai
Dàn ý chi tiết diễn biến tâm trạng ông Hai
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Kim Lân, truyện ngắn Làng và nhân vật ông Hai.
2. Thân bài
a. Khái quát về hoàn cảnh của nhân vật ông Hai
- Nghe theo chính sách của Đảng, gia đình tôi phải đi tản cư.
- Ở nơi ở mới, ông tích cực tăng gia sản xuất nhưng luôn nhớ về ngôi làng của mình, không biết làng đã thay đổi ra sao.
- Luôn nhớ về những kỉ niệm lúc còn ở làng.
- Chán ngán nơi ở hiện tại và luôn mong được quay trở về làng.
- Trước khi nghe tin làng theo giặc: Náo nức nghe ngóng thông tin của cuộc kháng chiến.
b. Khi nghe tin làng theo giặc
- Khi có người nhắc đến làng mình thì giật bắn người.
- Khi nghe tin làng mình theo giặc: cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân, lặng người đi, tưởng như không thể thở được, không tin vào những gì đã nghe.
- Cố gắng lảng tránh tin đồn đó: đau đớn đến uất nghẹn, trả tiền nước, đứng dậy chèm chẹp miệng, cố cười nói to và đi về.
- Nghe tiếng người khác chửi làng Việt gian theo giặc mà tưởng chửi mình, chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đi, về đến nhà nằm vật ra giường, nhìn lũ con tủi thân nước mắt ông cứ giàn ra.
- Cảm thấy tủi nhục, không dám đối mặt với người khác. Sợ bị đuổi phải quay lại làng nhưng lại kiên quyết không về cái làng theo giặc ấy.
- Suốt mấy ngày chỉ ở nhà, khi nghe ai nhắc đến Việt gian hoặc chuyện đó thì giật mình, tủi nhục.
- Sau khi biết làng mình không theo giặc thì vui vẻ trở lại, đi khoe khắp nơi về quá trình đánh giặc của làng mình như thể mình vừa trực tiếp tham gia chiến đấu với giọng đầy tự hào.
3. Kết bài
- Khái quát lại nhân vật ông Hai và nội dung, nghệ thuật của câu chuyện.
.....
Dàn ý Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Kim Lân, tác phẩm "Làng".
- Dẫn dắt vấn đề: Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc.
2. Thân bài:
a. Hoàn cảnh
- Ông Hai là người nông dân yêu làng, ông luôn tự hào về ngôi làng Chợ Dầu của mình.
- Trong kháng chiến, ông phải tản cư đi nơi khác nhưng lúc nào cũng nghe ngóng tin tức về làng.
b. Diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
* Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc:
- Nghe tin làng theo giặc, ông như điếng người.
- Cúi gằm mặt xuống mà đi, cảm tưởng như đang mất một thứ gì rất quý giá mà bấy lâu mình hằng trân trọng, gìn giữ.
- Nằm vật ra giường, nước mắt cứ giàn ra.
* Mấy ngày hôm sau:
- Ông không dám nhắc tới câu chuyện phản bội của làng, không dám bước ra ngoài.
- Chỉ nghe một tiếng xì xầm, xôn xao đâu đây ông cũng ngỡ là người ta đang bàn về "chuyện ấy"- chuyện cái làng theo giặc.
- Lo lắng khi người chủ có ý định đuổi ra khỏi nhà.
- Đau khổ, dằn vặt khi phải lựa chọn theo làng hay theo cách mạng.
- Lựa chọn đứng về phía cách mạng "Làng yêu thì yêu thật, nhưng làng theo giặc thì phải thù"
* Khi trò chuyện với thằng con út:
- Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má.
- Ông nói thủ thỉ: "Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ."
=> Những diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đã thể hiện được tình yêu làng tha thiết.
c. Nghệ thuật
- Biện pháp đối thoại, độc thoại nội tâm.
- Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ.
- Khắc hoạ diễn biến tâm lí nhân vật đặc sắc.
3. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp nhân vật và tình cảm của tác giả.
Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện ngắn Làng hay nhất
Puskin từng viết: “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Ta đã từng gặp gỡ hình ảnh một chị Dậu đầu tắt mặt tối điêu đứng trước cảnh sưu cao thuế nặng đại diện cho linh hồn nơi ngòi bút của Ngô Tất Tố. Ở một góc độ khác, cái nghèo đói, khổ cực cũng như một chiếc gông nữa đè lên cổ người nông dân trước Cách mạng tháng 8 - một Lão Hạc nghèo khổ, sống mòn sống mỏi trong thể xác già nua dưới góc nhìn hiện thực của Nam Cao. Và trong truyện ngắn “Làng”, tác giả Kim Lân đã để tiếng lòng của mình cất lên, để linh hồn tác phẩm bay lên qua hình tượng nhân vật ông Hai.
Nhà văn Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn. Có sở trường ở thể loại mà qua một lát cắt, có thể nhìn thấy "vòng đời thảo mộc cả trăm năm", Kim Lân cũng chủ trương viết bằng những trải nghiệm thực tế, chỉ viết những gì mình biết và mình thuộc. Chính vì vậy, nhà văn thường viết về đời sống của những người dân quê mà ông gắn bó. Tác phẩm "Làng" được viết vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, đăng lần đầu năm 1948. Tác phẩm kể về ông Hai - một người nông dân yêu làng, yêu nước nhưng bất ngờ nghe tin làng theo giặc. Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống gay cấn để khai thác nội tâm. Vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật này được thể hiện chân thực, đặc sắc qua từng chặng của quá trình đấu tranh, xung đột nội tâm gay gắt.
Ngay ở phần đầu tác phẩm, ta tìm thấy ở nhân vật ông Hai tình yêu làng tha thiết, sâu nặng. Ấy là ông hay khoe, hay kể về làng Chợ Dầu. Trước Cách mạng, ông hãnh diện về "những nhà ngói san sát, những đường làng toàn lát đá xanh, trời mưa, trời gió bùn không dính đến gót chân" của làng. Ông còn vui vẻ khoe cái cái sinh phần to lớn của viên tổng đốc dù để xây dựng cái sinh phần hoành tráng đó, rất nhiều người phải phục dịch. Thậm chí, bản thân ông Hai cũng từng bị gạch đổ vào chân nên phải đi tập tễnh. Đó là bằng chứng cho thấy sự bóc lột, áp bức nặng nề của bè lũ thống trị và cuộc sống tăm tối của nhân dân. Tuy vậy, nhìn chung thì cách ông yêu làng vẫn thật giản dị, hồn hậu, đáng trọng biết bao nhiêu. Nó mang đậm nét tâm lí nông dân, rất mộc mạc, tử tế. Khi đã có Cách mạng, ông chuyển sang tự hào về phong trào cách mạng sôi nổi, những buổi tập quân sự, những buổi đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá hay những buổi hát hỏng, bông phèng cùng anh em. Cái "phòng thông tin tuyên truyền rộng rãi", "chòi phát thanh cao" cũng khiến ông Hai lấy làm hãnh diện lắm! Quả thực, trong mắt ông, điều gì thuộc về làng Chợ Dầu cũng đáng yêu, đáng quý cả! Ở đây, ta có thể thấy tình yêu làng của ông đã có một quá trình phát triển, từ tình yêu thuần nhất với ngôi làng trở thành tình cảm với đất nước, cách mạng.
Khi phải đi tản cư theo lệnh kháng chiến, ông Hai mang trong mình sự day dứt, trăn trở vì nhớ làng. Nỗi nhớ ấy chỉ nguôi ngoai khi đi làm, chứ lúc về nhà, hễ nằm xuống giường, vắt tay lên trán, hình ảnh ngôi làng lại khiến ông thương nhớ. Dù xa cách nhưng ông vẫn chăm chỉ nghe ngóng tin tức kháng chiến, hỏi thăm về làng. Câu văn "Chao ôi ! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá" là tiếng lòng bộc bạch của ông. Lời cảm thán kết hợp với nhịp văn được ngắt thành nhiều vế cùng điệp từ "nhớ", "làng" được lặp lại trong cùng một câu văn đã thể hiện sâu sắc nỗi nhớ nhung trong tâm hồn nhân vật. Ngôi làng nhỏ bé là nguồn cội, là linh hồn, lẽ sống của cuộc đời ông. Tâm trạng ấy của ông Hai không phải là nỗi niềm riêng cá biệt mà là cảm xúc chung của bất cứ người nông dân nào khi phải rời xa nơi chôn rau cắt rốn để sống với thân phận của một dân ngụ cư.
Vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai còn nằm ở diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc. Khi chia sẻ về tác phẩm, Kim Lân từng nói: "Lão Hai chính là tôi. Viết đi viết lại hình như cuối cùng câu chuyện chính là mình." Nhà văn không bao giờ ra khỏi địa phận chân thực của mình viết về nên tất cả những cung bậc cảm xúc của nhân vật đều được miêu tả rất sinh động, tinh tế và sâu sắc. Đây quả là một tình cảnh éo le, khiến nhân vật phải giằng co, đấu tranh tâm lý từ đó bộc lộ rõ phẩm chất, tính cách.
Trước khi nghe tin làng mình theo giặc, ông Hai biết được bao nhiêu tin vui về cách mạng. Nào là một em nhỏ đã dũng cảm bơi ra hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên Tháp Rùa, nào là anh chiến sĩ giết được bảy tên giặc rồi tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng, nào là đội nữ dân quân Trưng Trắc đã giả dạng người mua hàng bắt sống một tên quan hai bốt Thao,... Ông Hai tự hào, phấn khởi bởi lòng yêu nước, tinh thần quả cảm, sự mưu trí, anh dũng của nhân dân ta. Không phân biệt già trẻ, gái trái, tất cả đồng bào đều cùng nhau chiến đấu. Những nhân vật ấy không được Kim Lân đặt tên bởi họ không tiêu biểu cho tài năng, tấm lòng của một cá nhân mà đại diện cho tinh thần của cả một dân tộc, một thời đại. Những chiến công hiển hách của quân ta khiến ông Hai vui sướng quá đỗi, "ruột gan ông lão cứ múa cả lên". Chắc hẳn ông cũng mong chờ những tin tức như vậy từ làng Chợ Dầu.
Khi nghe tin làng theo giặc, ban đầu, ông Hai bàng hoàng, sửng sốt. Cú sốc bất ngờ và đau đớn khiến “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Càng yêu làng, tin tưởng vào làng thì ông lại càng đau xót. Còn gì đau đớn hơn khi lẽ sống của mình sụp đổ? Ông lão như rơi xuống hố sâu của nỗi tủi nhục, bẽ bàng. Ông cố bình tâm để xác minh tin tức: “Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…”. Sự ngập ngừng thể hiện qua dấu ba chấm cho thấy ông niềm âu lo phấp phỏng cùng thoáng hi vọng mong manh. Ông ước ao đó chỉ là tin thất thiệt về làng... Nhưng người đàn bà “vừa ở dưới ấy lên” đã kể ra những dẫn chứng về sự phản bội của làng Chợ Dầu. Mỗi chi tiết bà ta kể là mỗi vết dao sâu hoắm găm vào trái tim ông. Giặc vào làng, cả làng vác cờ ra hân hoan. Thằng chánh Bệu còn khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam-nhông, rồi lại đưa cả vợ con đi với giặc ở ngoài tỉnh. Ông Hai không thể không tin. Cố gắng giấu niềm chua xót, ông đành lảng đi: “Hà, nắng gớm, về nào…”. Nỗi xấu hổ khôn cùng khiến người nông dân ấy “cúi gằm xuống mặt mà đi”. Còn niềm đau nào hơn là người của cái làng “giống Việt gian bán nước”? Thậm chí, những kẻ ăn cắp, ăn trộm vì đói khổ còn đáng thương, đáng được tha thứ và thấu hiểu hơn những kẻ phản bội lại Tổ quốc, đồng bào, phản bội nòi giống và tổ tiên để đi theo giặc giã.
Về đến nhà, ông Hai “nằm vật xuống giường”. Gương mặt mới hồi nào hồ hởi nay đã chẳng còn chút sinh khí. Ông đau đớn, tủi thân khi nhìn bọn trẻ con đang chơi với nhau ông. Tương lai nào cho các con ông khi chúng là trẻ con làng Việt gian? Rồi mai đây, chúng sẽ bị người ta hắt hủi. Nước mắt ông lão cứ giàn ra. Thế rồi, ông Hai căm giận đến tột cùng, lên tiếng chửi bọn người làng Chợ Dầu: “Chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Không phải niềm vui hay những lời tự hào, ở đây, những giọt nước mắt và sự tức giận của ông Hai cũng cho thấy tình yêu của ông với làng, với đất nước. Có yêu quý, hi vọng thì ông mới tức giận đến trào nước mắt. Đó không phải là tình yêu mộc mạc như ban đầu mà là một tình yêu tỉnh táo, lí trí, đặt vận mệnh đất nước lên trên. Trong lòng ông Hai diễn ra một cuộc xung đột nội tâm gay gắt. Một mặt, ông cố thuyết phục mình không tin vào cái tin dữ kia. Ông nhớ lại từng người một rồi tự lẩm bẩm: “ họ toàn là những người có tinh thần cả. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy”!. Mặt khác, ông lại nghi ngờ chính mình: “Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì”. Câu nói “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian”! được ngắt ra thành các câu văn ngắn với dấu “!” thể hiện sự phẫn uất và bất lực của ông Hai. Thế rồi, từ bẽ bàng, đau đớn, ngờ vực đến phẫn nộ, tâm trạng ông Hai chuyển sang sự lo lắng. Ông quan ngại cho cuộc sống của mình và những người làng đi tản cư: “Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao?”. Không khoa trương cầu kỳ, cũng không đưa ra bất kì tuyên ngôn nào, Kim Lân vẫn thể hiện trọn vẹn nỗi khổ tâm nhân vật bằng lối viết chân xác, giản dị. Ta vốn đã quen với những trang viết hùng hồn, những lời văn hùng tráng và lôi cuốn khi viết về lòng yêu nước, nay lại cảm động thấm thía trước nỗi niềm của một người nông dân nhỏ bé khi hay tin làng theo giặc. Bầu không khí nặng nề bao trùm nhà ông Hai tối hôm đó. Ông không sao ngủ được, trở mình hết bên này đến bên kia. Nghe tiếng mụ chủ nhà, trống ngực ông đập thình thịch, chân tay nhũn ra. Nỗi đau xót, tuyệt vọng đã ghì chặt lấy ông.
Tâm trạng ám ảnh của ông Hai còn được thể hiện xuyên suốt ba bốn ngày sau. Cả ngày ông Hai chỉ quanh quẩn trong nhà, nghe ngóng xem tình hình. Lúc nào ông cũng nơm nớp lo sợ mọi người xung quanh đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông, ông lại lủi vào một góc nhà mà nín thít. “Thôi, lại chuyện ấy rồi.”
Đỉnh điểm của sự căng thẳng, tuyệt vọng nằm ở việc mụ chủ nhà muốn đuổi ông đi. Khi ấy, ông Hai có 2 con đường: một là thuê nhà ở nơi khác, hai là trở về làng Chợ Dầu. Nhân vật đứng giữa hai ngã rẽ, buộc phải đấu tranh để đưa ra quyết định. Kim Lân đã rất tài tình khi xây dựng tình huống truyện đặc sắc này, từ đó thể hiện rõ phẩm chất nhân vật. Nếu ông đi nơi khác thì sợ rằng không ai chứa chấp nhưng về làng tức là phản bội lại cụ Hồ, kháng chiến. Thân phận con người hóa thành bơ vơ, lạc lõng. Mâu thuẫn của ông Hai là mâu thuẫn giữa niềm tự hào, tình yêu làng thuần hậu và nỗi ô nhục vì làng phản bội theo Tây. Cuối cùng, nhân vật đã đưa ra lựa chọn: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”. Chi tiết này thật cảm động! Nó cho thấy con người đã ý thức được về tình yêu nước, sự kiện trung với cách mạng. Quá trình phát triển tâm lí của nhân vật với những thay đổi, xung đột quyết liệt được nhà văn miêu tả rất tinh tế và thuyết phục. Dù đã đưa ra lựa chọn, ông Hai vẫn không thể dứt bỏ nghĩa tình với làng. Thậm chí, ông càng day dứt và nhớ làng hơn. Không biết gửi nỗi tâm sư vào đâu, ông đành tâm sự với đứa con nhỏ cho vơi bớt đi nỗi đau khổ của mình.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?
- Có
………
- Thế con ủng hộ ai?
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm.
Đoạn đối thoại giản đơn nhưng thật cảm động! Ông Hai vẫn luôn dành cho ngôi làng một vị trí trang trọng trong trái tim, ông giáo dục con dù ở nơi đâu cũng luôn nhớ về “nhà”. Nhà văn Ê - li - a Ê - ren -bua đã viết: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Đọc “Làng”, ta càng thấm thía câu nói ấy. Ông Hai yêu làng, nhớ về làng, hay khoe làng cũng chính là yêu đất nước vì ngôi làng của ông chính là một phần máu thịt của Tổ quốc. Giờ đây, tình yêu ấy càng lớn hơn khi được bổ sung thêm khía cạnh thủy chung với cách mạng, kháng chiến. Ông muốn con ông biết “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm”. “Cái tấm lòng của bố con ông là như thế, chết thì chết không bao giờ dám đơn sai.” Đây chính là lời thề sâu nặng, thiêng liêng của người dân dành cho Tổ quốc. Lời thề ấy không được khắc ghi trên đá hay thốt ra trước cảnh núi sông hùng vĩ mà được thốt lên trong tâm can của ông, trong khung cảnh đơn sơ, nghèo khó của làng quê Việt. Thân thương và đáng trọng biết nhường nào!
Như vậy, ta có thể thấy sự giằng xé nội tâm của ông Hai từ khi nghe tin làng theo giặc. Cuộc đấu tranh nội tâm đi từ chỗ bất ngờ, choáng váng đến đau xót, nhục nhã, tủi hờn, căm tức rồi ám ảnh, sợ hãi đến cùng cực. Lựa chọn cuối cùng của ông đã nói lên tình yêu làng, yêu nước, tình cảm thủy chung son sắt với cách mạng, kháng chiến của người nông dân. Ông Hai là hình ảnh đại diện cho vẻ đẹp của người nông dân VN trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Khi nghe tin làng được cải chính, tâm trạng của ông Hai hoàn toàn thay đổi. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, “Mồm bỏm bẻm nhai trầu”, “Cặp mắt hung hung đỏ hấp háy”. Nhà văn sử dụng một loạt các từ láy để diễn tả niềm vui, sức sống dâng trào của ông lão. Niềm vui ấy còn được thể hiện bằng các hành động như phấn khởi mua quà cho các con, đem khoe tin làng với tất cả mọi người: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa lên cải chính.... Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả". Nghe tin nhà mình bị Tây đốt, ông cũng lấy làm tự hào. Điều này có vẻ trái với quy luật thông thường nhưng lại phù hợp với dòng diễn biến tâm trạng của nhân vật. “Tây nó đốt nhà tôi” chứng tỏ “tôi” không hề theo giặc. Mái nhà là tổ ấm, là tài sản cá nhân quý giá nhưng ta sẵn sàng hi sinh tất cả khi Tổ quốc cần. Tình yêu làng của ông còn được tô đậm hơn nữa khi qua câu chuyện ông kể ở nhà bác Thứ tối hôm ấy. Giặc có bao nhiêu thằng, đốt phá những đâu đâu, dân quân tự vệ làng ông đã chống cự ra sao. Ông kể rành rọt, tỉ mỉ như chính ông vừa tham dự trận đánh ấy. Mọi người xung quanh, ai ai cũng vui mừng cho ông, đến cả bà chủ nhà cũng đon đả. Tình yêu nước là chất keo kết dính con người, tạo ra sự đoàn kết trong cộng đồng.
Có thể thấy rằng, viết đề tài nông thôn hay người nông dân trước Cách mạng không phải là điều hiếm. Trước Kim Lân, văn học nước nhà đã có những tên tuổi như Nam Cao, Ngô Tất Tố,… Thế nhưng, phải đến Kim Lân, hình ảnh những con người chân lấm tay bùn ấy mới thực sự trở thành bức tượng đài sừng sững về tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Con người trong văn chương Kim Lân có đấu tranh, day dứt đến trào sôi nước mắt nhưng không rơi vào bước đường cùng. Nhà văn đem đến cho họ con đường giải phóng để được sống tự do, hạnh phúc. Cả đời Kim Lân gắn bó với thôn quê nên chất “nhà quê” thấm nhuần vào từng trang viết. Ông trân trọng và yêu thương tất cả những điều bình dị quanh mình. Vì thế, tất cả đều hiện lên chân thực, cảm động vô cùng. Chính điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn cho truyện ngắn Kim Lân.
John Don Passos đã từng nói: “Anh có thể dứt bỏ con người khỏi xứ sở của họ, nhưng anh không bao giờ có thể dứt bỏ xứ sở nơi lòng người.”. Câu nói ấy thật đúng với nhân vật ông Hai trong tác phẩm “Làng”, rộng hơn đó chính là tinh thần yêu nước của cả dân tộc Việt Nam ta. Qua truyện ngắn, tác giả muốn biểu đạt một cách thấm thía, xúc động tình yêu làng, yêu nước sâu sắc của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp. Nghìn năm văn hiến, dòng chảy yêu nước vẫn luôn sẽ là nguồn cảm hứng bất tận sâu sắc và là dòng văn mạch trong chính nền văn học Việt Nam. Nên nhà thơ Chế Lan Viên đã khẳng định:
“Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng.”
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)
Đó là hào khí của tinh thần yêu nước, thương dân, là dòng chảy xuyên suốt trong mạch văn dân tộc.
Phân tích chuyển biến tâm trạng của ông Hai
Kim lân là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Ông viết ít nhưng tác phẩm nào cũng sâu sắc, truyền tải được vẻ đẹp đời sống của con người việt Nam hồn hậu. Truyện ngắn Làng là một tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu cho giọng văn Kim Lân. Với giọng văn bình dị, đằm thắm, Kim Lân đã thể hiện sâu sắc những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp qua nhân vật Ông Hai, một người nông dân hiền lành có tình yêu làng sâu đậm.
Làng được viết và đăng báo trên tạp chí Văn nghệ năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thời kì này thì người dân nghe theo chính sách của chính phủ: kêu gọi nhân dân ta tản cư, những người dân ở vùng địch tạm chiếm đi lên vùng chiến khu để chúng ta cùng kháng chiến lâu dài.
Có thể nói, trong các nhà văn trước và sau cách mạng, Kim Lân là nhà văn sống gần gũi và am hiểu đời sống của người nông dân Việt Nam nhất. Ông không chọn những đề tài lớn để thử thách ngòi bút của mình mà lại đi vào những tình cảm nhỏ bé nhưng không kém phần kịch liệt trong con người. Ở đó, ông nhìn thấy cái vẻ đẹp trong sáng, bình dị trong tâm hồn của người nông vốn bị cuộc sống xô bồ che lấp. Ở đó, ông nhìn thấy sự chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trước cuộc chiến chống thực dân Pháp.
Vào những năm 1948, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp lên cao nhưng người dân chưa thật sự ngã về phía cách mạng. Cho đến khi cách mạng thực sự đem đến lợi ích cho các vùng giải phóng thì người nông dân mới hết lòng tin tưởng và ủng hộ. Kim Lân đã phát hiện và nhanh chóng nắm bắt tình hình ấy. Ông đã thể hiện sự chuyển biến tích cực với niềm tin tưởng tưởng và đem lại sự tin tưởng cho đông đảo người đọc. Có thể nói, với truyện ngắn Làng, Kim Lân đã đóng góp một tiếng nói đồng tình, ủng hộ cách mạng với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Tư tưởng của truyện được cụ thể hóa qua hình tượng nhân vật ông Hai. Ông Hai là một lão nông hiền lành, chân chất. Ông rất yêu và tự hào về cái làng Chợ Dầu của mình. Ông yêu mến từng cái cây, con đường, hàng gạch, lối đi và tất cả những gì mà làng Chợ Dầu có. Ông yêu mến con người của làng Chợ Dầu hiền lành, thân thiện và quả cảm.
Ông mường tượng tất cả đều gắn chặt với cuộc đời ông không thể tách rời và mỗi khi có ai đó chê bai hay này nọ về cái làng của ông, ông đều tỏ ra không hài lòng. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Mỗi hình ảnh của làng đều đem đến cho ông một tình yêu mến vô hạn. Đó cũng là tình cảm vốn có từ ngàn đời nay của người nông dân Việt Nam gắn bó máu thịt với quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn của tổ tông. Thế nhưng, ở nhân vật ông Hai, đó là một tình cảm đặc biệt, thiêng liêng lắm.
Cũng vì quá yêu làng như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Ông thắm thía lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra bực bội, ít nói, ít cười, lúc nào cũng lầm bầm.
Biểu hiện của ông Hai cũng là biểu hiện của đông đảo nông dân thời bấy giờ. Họ không muốn rời làng, không muốn thay đổi. Kháng chiến thì cứ kháng chiến sao lại phải rời đi? Họ quyết bám chặt đất đai dù có bị cùm kẹp, áp bức, bị giết hại. Đối với họ, thay đổi nơi ăn chốn ở, rời bỏ mồ mả tổ tiên là một việc trọng đại. Làng nước là chốn thiêng liêng, không thể nói bỏ là bỏ trong một sớm một chiều. Thế nhưng, để ủng hộ kháng chiến, ủng hộ cách mạng, gia đình ông cũng tản cư về chỗ mới nhưng tình yêu làng mãi còn quấn quýt trong ông.
Ở nơi tản cư, ông dần dần hiểu ra mọi chuyện. Giờ đây, không những ông Hai yêu làng mà còn yêu cách mạng, yêu kháng chiến nữa. Từ miễn cưỡng thực hiện tản cư, đến yêu mến rồi nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến đó là một sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm của người nông dân. Ông Hai đã nhận thấy kẻ thù tàn bạo, chúng hủy hoại làng và cuộc sống của của nhân dân. Ông muốn tham gia chiến đấu cùng anh em nhưng ở tuổi này làm sao được.
Thế nhưng ông lại không muốn đứng ngoài cuộc, ông muốn làm gì đó chứ không chịu ngồi im khi trong lòng ông đang rộn ràng. Hằng ngày, ông đi nghe báo, ông đi nghe nói chuyện, ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến…Tuy ít học, không biết chữ nhưng lại rất thích nói chữ, thích nói chuyện chính sự dù cũng không hiểu lắm các thuật ngữ chính trị, thích nói những chuyện to tát cho nó có cái không khí cách mạng. Và ông cho rằng đó là cách ông yêu nước, yêu kháng chiến, ông muốn cuộc chiến của dân tộc nằm trong lòng ông, không xa rời.
Từ chuyện làng, ông chuyển sang chuyện kháng chiến, chuyện đánh tây. Tình yêu làng trong ông vẫn lớn nhưng giờ đây nó hòa quyện trong tình yêu cách mạng, yêu kháng chiến, tình yêu nước. Tình cảm cá nhân ông Hai đã hòa hợp với tình yêu tổ quốc. Yêu làng cũng là yêu nước. Tản cư nghĩa là ủng hộ cách mạng, nghĩa là ủng hộ sự nghiệp giải phóng đất nước mà ủy ban kháng chiến đã đề ra. Có lẽ ông Hai chưa nhận ra điều đó nhưng trong tình cảm của ông tình yêu nước đã sớm nảy nở và ngày càng sâu sắc hơn. Kim Lân đã rất bình tĩnh khi thể hiện sự chuyển biến âm thầm mà mạnh mẽ này.
Sự việc ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc là một sự thử thách lớn đối với tình yêu làng, yêu nước của ông. Đồng thời nó cũng quyết định lập trường cách mạng của người nông dân trong tình thế ngặt nghèo của đất nước. Ông Hai đã sững sờ, chết lặng người đi, rồi cảm giác xấu hổ, uất ức nghẹn trào khi nghe tin dữ đó.
Đối với ông, đó làm một cái tin không thể tin được, không thể chấp nhận được. Từ đỉnh cao của niềm vui,niềm tin ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy quá bất ngờ. Làm sao làng chợ Dầu có thể theo giặc? Làm sao người chợ Dầu có thể phản bội ông, phản bội cách mạng? Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy.
Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quí nhất nay cũng đã quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một lần nữa.
Tình huống truyện đã đặt nhân vật trong sự dằn vặt, đấu tranh ghê gớm. Đó là một “chất liệu xúc tác” có năng lực thanh lọc những tình cao cao quý của con người. Trước vận mệnh của đất nước và sự chuyển biến mạnh mẽ của dân tộc bắt buộc họ phải thay đổi hướng về nhiệm vụ chung. Thế nhưng, điều đó không phải dễ dàng và thật khó phát hiện. Tình yêu làng của ông Hai không có gì sai, thậm chí là rất cao đẹp. Nhưng ngay lúc này, đất nước đang cần có một tình cảm lớn hơn, đó là tinh thần yêu nước, cùng góp sức mình trong mặt trận chống kẻ thù.
Từ lúc nghe tin, trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy, nó xâm chiếm, nó trở thành một nỗi ám ảnh, day dứt không nguôi. Nghe đâu chửi bọn Việt gian là ông thấy đau nhói trong tim. Bao nhiêu điều tự hào về làng, về quê hương như đỗ vỡ trong tâm hồn người nông dân rất mực hiền lành ấy. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bất lương bán nước theo giặc. Và các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục khủng khiếp ấy.
Đó là trách nhiệm của một công dân tốt, của một người cha hết lòng vì con. Tuy không trực tiếp phản bội cách mạng nhưng cái tiếng phản bội ấy có liên quan đến gốc cội của ông. Người Việt Nam muôn đời sống có tình có nghĩa, quê hương nguồn cội là cái nôi của lòng tự hào, nay mang tiếng theo giặc bảo sao không khỏi tủi nhục. Nhưng cái nhục của ông Hai là cái nhục cao quý, khi cái tự tôn trong ông bị đập đổ, bị phản bội. Nhà văn Kim Lân đã rất bản lĩnh khi khắc họa điều này. Sự thay đổi trong tình cảm tốt đẹp của người nông dân đã được tôn trọng, diễn ra từ từ và hết sức hợp lí, đúng đắn, xuất phát từ nhận thức cao độ và khẳng định sâu sắc.
Sự tủi hổ của ông Hai những ngày sau đó khẳng định mạnh mẽ điều này. Ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ tới tương lai. Ông không biết đi đâu, về làng thì không được, vì về làng lúc này là đồng nghĩa với theo Tây, phản bội kháng chiến. Ở lại thì không xong, vì mụ chủ nhà đã đánh tiếng xua đuổi. Còn đi thi biết đi đâu bởi ai người ta chưa chấp dân làng Chợ Dầu phản bội.
Nếu như trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì lúc này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn. Quê hương và Tổ quốc, bên nào nặng hơn? Đó không phải là điều đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần của cuộc đời, không dễ gì vứt bỏ; còn cách mạng là cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ.
Cuối cùng, ông đã quyết định: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Sau bao đắn đo, bao lựa chọn, bao lí do, cuối cùng ông hai đã thật sự đứng về phía cách mạng, ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến. Tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất nước.
Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của cả cộng đồng. Họ có thể vì cách mạng vì đất nước mà hi sinh tình riêng, hướng đến sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nước nhà.
Cuộc giải bày của ông Hai khi nói với đứa con nhỏ thật cảm động. Dù đã quyết liệt nhưng ông Hai không khỏi đau lòng, ấm ức. Và khi tình huống truyện đạt đến cao trào, tình cảm dâng lên đỉnh điểm thì Kim Lân lại cho nó bùng phát một lần nữa cởi trói cho nhân vật yêu mến của mình. Đúng lúc ông Hai quyết định rõ ràng lập trường của mình thì cái tin làng Chợ Dầu phản bội đã được cải chính. Nỗi niềm đau khổ của ông Hai trong những ngày qua lớn lao bao nhiêu thì niềm phấn khởi và hạnh phúc cũng dạt dào bấy nhiêu. Ông muốn nhảy cẫng lên, muốn hét thật lớn để giải thoát bao ấm ức, bao kìm nén, bao tủi nhục bấy lâu, lên tiếng minh oan cho chính mình.
Phần xử lí cốt truyện tài tình thể hiện sự cảm thông sâu sắc và tình yêu mến lớn lao của nhà văn đối với người nông dân hiền lành, yêu nước. Thế rồi, ông lại đi khắp nơi, gặp ai ông cũng nói làng chợ dầu không theo giặc, làng chợ dầu kháng chiến với niềm hân hoan tột cùng.
Có thể nói, cái tài tình của Kim Lân là đã sáng tạo tình huống truyện có tính căng thẳng, đầy thử thách, cách xử lí cốt truyện mang đậm chất tâm lí. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn tự nhiên mà sâu sắc, tinh tế. Đặc biệt ngôn ngữ đặc sắc, sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân vốn là thế mạnh của nhà văn nông dân tài hoa này.
Những chuyển biến âm thầm nhưng mới mẻ trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp được biểu hiện rõ ràng qua nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất, hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai trong truyện ngắn Làng
Diễn biến tâm trạng ông Hai - Mẫu 1
Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, ông sinh năm 1920 quê ở Bắc Ninh. Ông là nhà văn hiện thực sâu sắc của văn học Việt Nam, ông còn được mệnh danh là nhà văn nông thôn với nhiều tác phẩm viết về nông thôn xuất sắc. Tuy Kim Lân viết không nhiều nhưng tác phẩm nào cũng để lại ấn tượng rất tốt trong lòng độc giả. Ông được sinh ra ở nông thôn, là con đẻ của nông thôn nên ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của nông dân nghèo. Nhân vật của ông thường hiền hậu, chất phác và khao khát sự bình yên. Làng là một tác phẩm viết về đề tài nông thôn xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm sáng tác năm 1948 trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đó, nhân vật chính là ông Hai, ông yêu cái Làng vô cùng vì thế khi Pháp đánh chiếm ông quyết định ở lại Làng làm du kích, đánh giặc dù tuổi đã cao.
Đối với mỗi con người trong chúng ta, ai cũng đều có quê hương và có một tình yêu quê hương tha thiết, nồng nàn nhưng ở mức độ khác nhau. Có người yêu đến nỗi không thể rời xa, có người tuy yêu nhưng vẫn có thể đi nơi khác để tìm kế sinh nhai, phát triển. Dù là tình yêu ở mức độ nào cũng đều đáng được trân trọng. Còn ông Hai, ông chính là người nông dân hiền lành chất phác có một tình yêu Làng tha thiết không thể rời xa.
Ông yêu Làng là thế nhưng vì vợ con, ông buộc phải theo vợ con đi nơi tản cư. Ở đây lúc nào ông cũng nghe ngóng về tin Làng, về kháng chiến. Ông thường qua nhà ông Thức trọ ở bên để tâm sự về kháng chiến, nghe ngóng tin. Và mỗi lần kể về Làng ông đều háo hức, hạnh phúc vô cùng. Cho đến khi ông nghe tin làng chợ Dầu theo giặc làm việt gian thì ông sững sờ, nỗi bất hạnh lớn nhất đã sụp xuống đầu ông, ông tưởng như không thể thở được.
Tác giả đã đặt ông vào một tình huống vô cùng éo le để có một sự chuyển biến tâm trạng. Ông yêu làng như thế vậy mà làng lại theo Tây? Trong tình huống này tâm trạng ông có một sự giằng xé đau đớn, còn yêu và tin làng nữa không hay từ bỏ?
Hàng ngày, ông vẫn luận về chính trị, về kháng chiến, và không quên khoe, tự hào về làng. Vậy mà hôm nay ông nghe tin làng theo Tây. Tin dữ đến bất ngờ khiến ông choáng ngợp: “Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ”.
Từ khi nghe cái tin ấy, ông Hai chỉ cổ cái tin dữ ấy xâm chiếm. Nó ám ảnh day dứt đến nỗi ông nghe đâu cũng sợ người ta nói về mình, chỉ nghe tiếng chửi bọn Việt Gian ông đã cúi gằm mặt đi, không dám ngẩng lên. Về nhà thì ông nằm vật ra, ông tủi thân, ông thương cho mình, cho gia đình, nước mắt trào ra vì nghĩ “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra… Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư”
Niềm tự hào về Làng dường như sụp đổ. Làng chính là sĩ diện, là tình yêu của ông. Ông khoe làng với mọi người trong niềm tự hào vậy mà giờ Làng theo tây thì ông còn mặt mũi nào mà gặp ai, ông xấu hổ đến nỗi không dám ra ngoài, thấy một đám đông tụ tập ông cũng chột dạ. Lúc nào cũng lo người ta đang nói ông, nói đến cái chuyện làng theo tây mà thôi.
Trong gia đình ông cũng căng thẳng vì chuyện ấy, không ai nói với ai điều gì. Tâm trạng ông giằng xé đau đớn, ông liệt kê lại từng người, ông vẫn cố gắng níu kéo làng không theo tây, toàn người có tinh thần cả mà, làm sao teo tây được. Nhưng giờ có cái tin ấy thì ông biết phải làm sao, không có lửa sao có khói “Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa.”
Tác giả đã tả cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai, cùng với nỗi tủi hổ đau xót khi nghe tin làng theo giặc. Hễ đâu có đám đông là ông sợ. Ông không dám nhìn mặt ai, lúc nào đi cũng cúi mặt rất khác với ông mọi khi. Ông ở trong nhà mấy ngày liền không qua nhà ông Thức vì xấu hổ. Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không dám sang. Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng. Nghe ngóng xem binh tình bên ngoài ra sao? Một đám đông xúm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”.
Nhìn kĩ, ta sẽ thấy ông Hai yêu làng quê và tinh thần yêu nước của ông có một sự xung đột. Trước đây ông yêu làng bằng tình cảm cố hữu mà bất kì người nông dân nào cũng thế. Khi có kháng chiến, ông cùng mọi người đào hầm, đắp ụ, còn không muốn đi tản cư vì muốn ở lại bảo vệ làng, tham gia kháng chiến. Nghĩa là khi ấy ông chưa ý thức được việc bảo vệ đất nước, ông chỉ nghĩ đến tình yêu với làng mà thôi. Mọi hành động của ông là đều để bảo vệ làng.
Tuy nhiên, khi đọc kĩ và khi thấy những tâm trạng giằng xé trong ông nghe tin làng theo Tây ông lo lắng vô cùng, ông giằng xé đau khổ ta mới thấy ông yêu Làng và quan trọng hơn là ông yêu cái tinh thần kháng chiến của Làng. Đó mới là giá trị thực mà ông yêu quý và giữ gìn. Thế nên, khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc ông đã chết lặng người. Khi Làng theo giặc thì vẻ đẹp của làng vẫn còn nhưng vẻ đẹp kháng chiến thì không còn nữa. Và lúc này đây ông mới thấy tủi nhục, xót xa vì cái vẻ đẹp kháng chiến mất đi.
Nhất là sau khi ông tự dằn vặt mình “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ… Nước mắt ông giàn ra, về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây” . Đây mới chính là tình yêu là tinh thần của ông. Thì ra ông yêu Làng tha thiết ngoài cái tình yêu cố hữu thì đó chính là tinh thần kháng chiến, vì cụ Hồ. Vì làng có những con người có tinh thần kháng chiến, chống giặc nên ông càng yêu, càng nhớ làng, nhớ những công việc làm kháng chiến, đắp ụ, xây hầm.. Một người đã yêu làng như thế mà kiên quyết không về làng vì làng theo tây “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.”
Tình yêu đất nước, tinh thần kháng chiến của ông đã cao hơn cả tình yêu Làng. Làng theo Tây phải thù. Làng mà trước kia ông yêu tha thiết, lúc nào cũng muốn trở về vậy mà vì tin dữ ấy mà ông thù làng, ông quyết không về, về để làm nô lệ à?
Tình cảm của ông khi bị tin dữ ấy đến càng như bị thách thức. Nhất là khi mụ chủ nhà biết chuyện ngỏ ý muốn đuổi khéo gia đình ông đi. Nhưng đi đâu đây, đi đâu người ta cũng không muốn chứa chấp cái làng Việt Gian. Ông đã thoáng hay trở về Làng nhưng tâm trạng lại giày vò, dằng xé trong ông vì làng theo tây rồi không thể trở về. Tình cảm đó mới đáng trân trọng làm sao. Một người ngần này tuổi như ông mà đau đớn, nước mắt chảy vì danh dự của mình và danh dự của làng. Làng chính là danh dự của ông. Làng đánh mất danh dự rồi ông còn dám nhìn ai.
Đó cũng là suy nghĩ thường tình khi Làng chính là quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn. Con người ta có ai cũng có một quê hương để trở về, một nơi để nương tựa. Trong hoàn cảnh này ông Hai đáng thương biết bao nhiêu. Giờ đây đến quê hương cũng không thể trở về.
“Làng đã theo Tây, về làng nghĩa là rời bỏ Kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ” thì ra, ông nghĩ đến cụ Hồ, nghĩ đến kháng chiến nhiều hơn nghĩ cho bản thân mình. Nhưng bản thân không có gì thì sao lo cho đất nước đây. Tâm trạng ông được đặt trong một sự bế tắc thực sự, giữa đi và ở, giữa tình yêu cố hữu và tình yêu quê hương đất nước, tình yêu kháng chiến, ông đã chọn kháng chiến. Nhưng ông phải đi đâu làm gì đây khi đã có mác là người ở làng Việt gian. Ông không biết tâm sự cùng ai, may có thằng bé con con ông, nó nói nó vẫn muốn trở về làng nhưng nó yêu kháng chiến, nó ủng hộ cụ Hồ. Nó nói đúng tâm trạng của ông, phải ủng hộ cụ Hồ “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai”.
Cuối cùng, vài ngày sau có một đồng chí cán bộ đến tận nhà ông báo, đó chỉ là tin giả, làng của ông không phải việt gian, không theo Tây. Dường như mọi đau khổ, giằng xé bây giờ mới được giải tỏa. Ông hạnh phúc, ông hãnh diện vì Làng, cái mặt buồn thiu mọi ngày nay bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên. Vậy là sợi dây buộc trong lòng ông nay đã được gỡ nút. Ông vội vàng đi nói với mọi người tin giả này. Ông nói nhà ông bị Tây đốt sạch rồi mà vui như mở hội. Có lẽ tình yêu làng , tình yêu kháng chiến yêu quê hương đất nước, yêu cụ Hồ lớn hơn cả vật chất, ông không sợ gì chỉ sợ người ta không tin ông theo kháng chiến, chỉ sợ người ta nói ông và làng ông là làng Việt Gian.
“Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi là Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.
Qua đây ta càng hiểu rằng, ông Hai yêu Làng chính là yêu cái Làng kháng chiến, yêu những con người đồng lòng theo cách mạng chứ không phải yêu cái giàu, cái đẹp bề ngoài của ngôi làng mà ông hay khoe. Vậy nên khi Làng bị đốt sạch, đốt nhẵn, ngay nhà ông cũng bị đốt ông vẫn thấy vui và hạnh phúc vô cùng.
Truyện ngắn đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai, một người yêu làng, yêu kháng chiến và yêu nước tha thiết. Đặc biệt nhân vật bị đẩy vào tình huống gay cấn càng bộ lộ rõ tình yêu nước nồng nàn. Với nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, độc thoại, đậm chất nông thôn nhưng hết sức gợi cảm, nhiều cảm xúc đã thể hiện lên bức chân dung sống động đẹp đẽ của người nông dân thời kì đầu kháng chiến.
Diễn biến tâm trạng ông Hai - Mẫu 2
Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một tác phẩm đặc sắc thể hiện tình yêu của người nông dân đối với quê hương, đất nước mình trong kháng chiến chống Pháp một cách cảm động. Làm nên thành công của tác phẩm không thể không nhắc đến nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai trong tác phẩm khi nghe tin làng Dầu của mình theo giặc được thể hiện một cách sinh động đã thể hiện điều đó.
"Làng” ra đời năm 1948. Tác phẩm lấy bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến của nhân dân. Ông Hai là nhân vật chính của tác phẩm, có lẽ phần vì tuổi cao, phần vì chân ông vẫn bị thương “đi tập tễnh” nên ông được vận động tản cư kháng chiến cùng gia đình. Nhưng trong thâm tâm, ông rất muốn ở lại làng để cùng anh em chiến đấu. Và chính ở nơi tản cư, ông đã bộc lộ sâu sắc tình yêu cái làng của mình.
Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Ngày ngày, ông sang nhà hàng xóm chơi hoặc đi nghe tin, đi nói chuyện,... Đến đâu ông cũng khoe về cái làng của mình. Trước Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi.". Và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên tổng đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy nữa", vì ông nhận thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi người, là kẻ thù của cả làng: Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy". Bây giờ ông khoe làng ông khởi nghĩa, khoe ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối", rồi những buổi tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông,... Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm". Ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày làm việc cùng với anh em: "Sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra.[…] Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên.". Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng Chợ Dầu của ông đánh Tây.
Thế mà, đùng một cái ông nghe được cái tin làng Chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian. Càng yêu làng, hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.
Ông lão đang náo nức, "ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá! vì những tin kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, dường như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ [...] giọng lạc hẳn đi", "Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm.
Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động: "Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra... Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở. "Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước...”. Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm: "Gian nhà lặng đi, hiu hắt, ánh lửa vàng nhờ nhờ, ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà." Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là "chuyện ấy".
Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, "không dám bước chân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: Thật là tuyệt đường sinh sống! [...] đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu".
Từ chỗ yêu tha thiết cái làng cùa mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ…Và "Nước mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ dại:
Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?
Là con thầy mấy lị con u.
Thế nhà con ở đâu?
Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông:
Anh em đồng chí biết cho bố con ông
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong người nông dân chân lấm tay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về làng bất kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điểm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hết sức đặc trưng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội. Nếu như trong biến cố ấy tâm trạng của ông Hai đau đớn, tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng Chợ Dầu của ông không hề theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ông Hai như người vừa được hồi sinh. Một lần nữa, những thay đổi của trạng thái tâm lí lại được khắc họa sinh động, tài tình: "Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lèn. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! [...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.", "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn.[...] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!". Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi cái ách người làng Việt gian”. Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như một người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình, ... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế. Mặt khác, cũng như các nhân vật quần chúng (chị cho con bú loan tin làng Chợ Dầu theo giặc), bà chủ nhà, ... cái khó quên ở nhân vật này còn là nét cá thể hoá rất đậm về ngôn ngữ. Lúc ông hai nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là bỏ mẹ chúng nó", "không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy", "thì vẫn”, "có bao giờ dám đơn sai", ... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của người nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa hiểu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phần nào cũng nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này.
Xây dựng thành công diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai là thành công lớn nhất của truyện ngắn Làng. Điều đó đã thể hiện được tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc khám phá chiều sâu tâm lí nhân vật. Và hơn hết, điểu đó đã xây dựng trong lòng độc giả một chân dung sống động, chân thực về một tấm lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha cảm động của người nông dân Việt Nam chất phác, thật thà.
Diễn biến tâm trạng ông Hai - Mẫu 3
Tình yêu làng xóm quê hương là một phẩm chất truyền thống của người dân Việt Nam đã được thể hiện rõ trong các tác phẩm văn học. Trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân, nhân vật Ông Hai vừa có lòng yêu làng tha thiết như truyền thống vốn có của người dân Việt Nam lại vừa có những nét mới mẻ đáp ứng không khí sôi nổi, quyết tâm của cuộc kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ.
Cũng như bao người nông dân khác, sống êm ả sau luỹ tre làng, ông Hai yêu làng Chợ Dầu của mình với một tình yêu thật đặc biệt. Tình cảm đó trong ông biểu hiện bằng tính hay khoe về cái hay, cái giỏi của làng quê mình, cứ như không đâu bằng được như vậy. Ông khoe làng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Ông nói về sự giàu có, trù phú của làng mình với một niềm say mê và náo nức lạ thường: “Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển…”. Ông kể về cái làng của ông như một người nông dân tự hào về những thửa ruộng xanh ngút ngàn do chính tay mình cày cấy, như một trọc phú khoe về cơ ngơi giàu có của mình, ông tự hào khoe về làng mình như khoe của cải quý giá của cá nhân mình vậy. Thật là một tình cảm chân tình, mộc mạc nhưng đáng trân trọng vô cùng. Tất cả những điều đáng kiêu hãnh đó đã chứng tỏ rằng người dân làng ông đều là những con người cần cù trong lao động, có ý thức đóng góp cho quê hương mình ngày càng giàu đẹp. Những phẩm chất đáng quý đó không chỉ của riêng người nông dân làng Chợ Dầu mà còn là của những người dân Việt Nam trên muôn ngàn làng quê khác.
Sau Cách mạng, khi đã được giác ngộ ý thức giai cấp, tình yêu làng của ông Hai có những biến chuyển sâu sắc. Nếu trước kia ông coi cái “sinh phần của cụ Thượng” là niềm hãnh diện trước con mắt ngạc nhiên của dân làng khác thì bây giờ ông đâm ra căm thù nó vì “cái lăng ấy nó làm khổ ông, nó còn làm khổ bao nhiêu người trong làng này nữa”. Ông còn biết tham gia tự vệ để chiến đấu chống Pháp bảo vệ làng quê, và còn làm nhiều việc khác để phục vụ cho kháng chiến. Lúc này, ông kể về làng một cách hả hê, nào là làng có nhà thông tin, chòi phát thanh cao lớn nhất vùng, rồi những buổi tập dân quân tự vệ có cả phụ lão tham gia, khoe những đường hào, những ụ… Tuy chỉ là cách nghĩ, cách nói của người nông dân hồn nhiên, chất phác, nhưng ông vẫn luôn luôn tâm niệm: bảo vệ làng tức là đi theo kháng chiến.
Khi phải xa làng đi tản cư ông lão cũng nghĩ rằng: “Tản cư cũng là kháng chiến”. Xa làng khi nghe tin giặc đánh Chợ Dầu, ông đã hỏi ngay: “Ta giết bao nhiêu thằng ?”. Câu hỏi đó chứng tỏ quyết tâm chống giặc, góp một mặt trận nhỏ cho chiến trường chung của cả nước. Lòng yêu làng, nhớ làng chuyển thành sự quan tâm tới chiến sự, tới chính phủ của Cụ Hồ. Đó là biểu hiện cao đẹp về lòng yêu nước của những người dân quê Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Đến đây ta thấy rằng tình cảm làng xóm quê hương đầy tính truyền thống của người dân quê Việt Nam từ bao đời nay đã mang những nét mới của thời đại. Ông Hai khoe làng trong cuộc kháng chiến chống Pháp của đất nước chính là ông đã đặt làng trong phong trào cách mạng chung. Đó là cơ sở để ông Hai tự hào về sự hòa nhập cuộc chiến đấu bảo vệ làng, không theo địch của làng Chợ Dầu với cuộc kháng chiến vĩ đại của cả nước. Đây là điều mới mà cách mạng đã đem lại cho ông. Nét đẹp này đã tạo nên bản lĩnh vững vàng để nhân vật có thể trải qua nhiều bão tố và những trắc trở ở đời mà vẫn vững vàng, kiên định.
Thử thách đầu tiên xảy ra trong một hoàn cảnh đặc biệt. Đó là khi tin làng Chợ Dầu theo giặc – tuy mới chỉ phong thanh từ miệng mấy người dân tản cư cũng đủ khiến ông vô cùng bàng hoàng, đau xót. Hàng loạt diễn biến tâm trạng giằng xé tâm can ông. “Da mặt ông tê rân rân”, “cổ nghẹn ắng hẳn lại” chứng tỏ rằng ông đang đi tới cực điểm của sự đau khổ và mất hết niềm tin. Nhớ làng, mong được trở về làng đến khắc khoải, đau đớn vậy mà lúc này người nông dân chân chất này đã phải thốt ra những lời đau xót: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Từ trong tâm thức, ông Hai đã không cho phép dân làng đi ngược với lí tưởng của nhân dân, đất nước, đi ngược với cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc.
Mặc dù dằn lòng lại nhưng suy nghĩ, tình cảm đối với làng Chợ Dầu như ngấm vào máu thịt của ông vậy. Ông hổi con quê ở đâu cốt để con nhắc đến làng chợ Dầu của ông. Ông thủ thỉ tâm sự rồi khóc với đứa con bé bỏng cũng chính là để khẳng định lại lòng trung thành tuyệt đối của mình đối với Cách mạng, với Cụ Hồ. Mỗi việc ông làm, mỗi lời ông nói, mỗi biểu hiện dù nhỏ nhất trong tâm trạng ông lúc này đều chứng tỏ tình yêu làng xóm quê hương của người nông dân này đã có những chuyển biến sâu sắc về nhận thức cách mạng, nhận thức giai cấp.
Lần thử thách thứ hai là khi nghe tin cải chính về làng Chợ Dầu, ông như được hồi sinh, sung sướng như trẻ con, bô bô đi khoe khắp nơi. Những mất mát do giặc gây ra với ông và làng Chợ Dầu được ông mang đi khoe như những bằng chứng về lòng trung thành của mỗi người nông dân làng ông sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Người ta vẫn quan niệm nông dân là những người có đặc tính tư hữu, nhưng ở đây, khói lửa của cuộc chiến, sinh mệnh của đất nước đã khiến họ sẵn sàng hi sinh tất cả cho cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc. Họ sẵn sàng nhường cơm sẻ áo cho nhau, sẵn sàng cống hiến công sức, tài sản, thậm chí cả xương máu cho thắng lợi cuối cùng của đất nước.
Ông Hai là nhân vật điển hình cho người nông dân Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám, có lòng yêu làng tha thiết, hoà vào tình yêu nước thiêng liêng, sâu sắc. Họ sẵn sàng hi sinh tất cả, kể cả ngôi nhà, hay cả làng quê yêu dấu, tổ ấm tâm linh của mình cho kháng chiến.
Truyện ngắn Làng đã thể hiện cách nhìn mới mẻ, đúng đắn của nhà văn Kim Lân về người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì và anh dũng, ớ đó, lịch sử hào hùng của đất nước đã lay động trái tim chân thật của mỗi người, khiến cho những phẩm chất đáng quý trong tâm hồn họ trở nên tốt đẹp hơn, cao quý và sâu sắc hơn.
Diễn biến tâm trạng ông Hai - Mẫu 4
Trong văn học hiện đại Việt Nam, Kim Lân được xem là nhà văn của nông thôn, của những người lao động bình thường, chân chất. Làng của ông là một minh chứng cho những truyện ngắn đặc sắc của ông về mảng đề tài đó. Câu chuyện xảy ra trong kháng chiến chống thực dân Pháp, trong đó người nông dân đã có những chuyển biến sâu sắc trong nhận thức của mình về làng quê, về đất nước, về cách mạng,… Điều đó đã đem đến cho trang sách của ông những tình cảm đẹp đẽ, tươi mới về người nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.
Có lẽ sau khi đọc truyện Làng, ai cũng bị ấn tượng bởi tình yêu làng của ông Hai. Đó là một tình yêu sâu nặng, chân thành. Một tình yêu mộc mạc mà chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp ở mọi người dân quê Việt Nam. Nhưng đặc biệt ở chỗ, tình yêu làng ở ông Hai trở thành niềm say mê, hãnh diện, thể hiện rõ ở thói quen “khoe làng” của ông.
Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai khoe làng Chợ Dầu của mình đẹp, giàu có, trù phú “nhà ngói san sát, đường làng lát toàn đá xanh, khi đi trời mưa, bùn không bén gót chân”. Trong mắt ông Hai, làng Chợ Dầu là ngôi làng đẹp nhất, sầm uất nhất, là niềm tự hào, hãnh diện của mình. Ông có thể ngồi hàng giờ nói về làng của mình, thậm chí gặp ai ông cũng kể về làng Chợ Dầu. Tình yêu làng Dầu khiến ông Hai trở nên mụ mẫm đến nỗi tất cả những gì thuộc về làng Dầu đều là một niềm kiêu hãnh, cả cái dinh quan tổng đốc làng ông, cái công trình khiến bao người dân vô tội như ông phải đổ mồ hôi thậm chí cả máu để xây dựng nên nhưng cuối cùng “cái đình ấy như của riêng mấy thằng kì lí chuyên môn khua khoét, hống hách”. Cái đình chứa bao “sự ức hiếp đè nén” trong mắt ông cũng rất đẹp, đẹp như chính làng Chợ Dầu của ông vậy.
Nhưng khi đã được giác ngộ cách mạng, ông Hai không còn khoe về sự giàu có của làng Dầu. Ông khoe về tinh thần chiến đấu của làng mình, về các “cụ già râu tóc bạc phơ mà vẫn tập một hai“, về các “anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”, về cái đài phát thanh, thậm chí cả cái chòi gác dựng ở đầu làng ông. Chính Cách mạng tháng Tám đã làm thay đổi con người ông, từ sau khoá bình dân học vụ, ông đã biết đọc, biết viết và quan trọng hơn, ông đã có nhận thức về kháng chiến, về Đảng, Bác Hồ. Ở nơi tản cư, ông trở nên bận rộn hơn và đường như lúc nào ông cũng làm việc quan trọng: ông vào phòng thông tin nghe đọc báo, ngồi nói chuyện với mọi người. Tâm trạng ông lúc nào cũng vui mừng, náo nức, nhất là khi nghe tin đột kích. Chúng ta có thể nhận thấy tình yêu làng của người nông dân như ông Hai đã trở thành tình yêu đất nước, Tổ quốc. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, ở đâu, lòng ông cũng hướng về làng Chợ Dầu. Khi ngồi nói chuyện với mấy người mới đến tản cư, nhắc đến làng Chợ Dầu ông “quay phắt lại, lắp bắp hỏi” thông tin. Và tình yêu làng của ông được bộc lộ rõ nét nhất khi ông Hai nghe tin đồn làng Dầu theo Tây, làm Việt gian.
Khi nghe tin ấy, ông Hai sững sờ: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố không chịu tin vào cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không muốn tin cũng phải tin. Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ còn cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt xuống mà đi”, về đến nhà, ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn đàn con “nước mắt ông lão giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư ?”. Rồi ông “Nắm chặt hai tay lại mà rít lên” chửi bọn ở làng “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ?”.
Có lẽ chúng ta không thể tin được một con người như ông Hai, một người vui vẻ, suốt ngày chỉ ra ngoài để nói về chuyện đột kích, chuyện làng Dầu nay lại ru rú ở nhà than khóc, chửi bới. Tâm trạng ông rối bời, nửa tin nửa ngờ vào cái chuyện khủng khiếp ấy. Suốt mấy ngày hôm sau, ông không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở nhà nghe ngóng tình hình bên ngoài. Vợ ông nhắc đến chuyện đó, ông gạt đi. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông,.., là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi ! Lại chuyện ấy rồi.”.
Khi nghe tin làng theo giặc, hai tình cảm: một bên là làng, một bên là nước dẫn đến một cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai. Ông đã dứt khoát chọn theo cách của ông: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng dù đã xác định như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng, vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ. Ông Hai đã bị đẩy vào thế bế tắc, tuyệt vọng khi mà mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi. Đi đâu bây giờ ? Không ai muốn chứa chấp dân của cái làng “Việt gian”. Mặc dù chưa biết đi đâu nhưng ý nghĩ quay về làng là không có. Vì trở về làng có nghĩa là “chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”, là phản bội lại Đảng, Cụ Hồ. Chính lúc này, chúng ta mới thấy hết được tình yêu làng của ông Hai. Thật cảm động khi ông ôm đứa con út vào lòng, trò chuyện với nó.
Khi tâm trạng bị dồn nén, ông trút nỗi lòng vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con nhỏ, rất ngây thơ. Qua đó, ông muốn tự nhủ với mình, tự giãi bày với lòng mình. Ông muốn đứa con ghi nhớ câu “Nhà ta ở làng Chợ Dầu” và muốn nó biết tấm lòng thuỷ chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Gái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.”. Đó chính là tình cảm sâu nặng, thiêng liêng mà chân thành, bền vững của ông Hai – một người nông dân với quê hương, đất nước, với Cách mạng và Bác Hồ và các tình cảm đó không chỉ còn là niềm tự hào mà còn là niềm tự tôn, là danh dự của ông Hai.
Khi nghe tin cải chính làng Dầu không theo Tây, ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy”. Ông vội vã đi hết nhà này đến nhà khác để báo tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng em vừa mới lên trên này cải chính… cải chính tin làng Chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo ! Láo hết ! Toàn là sai sự mục đích cả.”. Chúng ta tự hỏi điều gì khiến cho ông Hai vui mừng khi làng Dầu thân yêu của ông bị “đốt nhẵn” ? Đó là bằng chứng cho danh dự của làng ông, cho tấm lòng son sắt, thuỷ chung của người dân làng Dầu. Và cũng từ hôm đó, ông Hai lại đi kể cho hàng xóm chuyện làng Dầu. Chuyện “hôm Tây vào khủng bố. Chúng nó có bao nhiêu thằng, bao nhiêu Tây, bao nhiêu Việt gian, đi những đường nào, đốt phá những đâu đâu, và dân quân tự vệ làng ông bố trí, cầm cự ra sao, rành rọt, tỉ mỉ như chính ông lão vừa dự trận đánh giặc ấy xong thật… ”
Chúng ta có thể gặp một ông Hai như thế trong bất kì người nông dân Việt Nam nào. Tác giả Kim Lân rất tài tình khi tạo tình huống truyện văn miêu tả tâm lí nhân vật. Có lỗ ông phải rất gần gũi với những người nông dân mới xây dựng nên một nhân vật ông Hai giản dị mà thân thuộc đến vậy.
Qua nhân vật ông Hai, chúng ta thấy rõ tình yêu làng, yêu nước của những người nông dân Việt Nam thời kháng chiến đã có sự chuyển biến. Nó trở thành một tình cầm thiêng liêng, cao đẹp, một trách nhiệm của người công dân. Đọc xong truyện ngắn Làng chúng ta có thêm niềm tin vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến vì có những người như ông Hai.
Diễn biến tâm trạng ông Hai - Mẫu 5
Kim Lân là một nhà văn có sở trường về truyện ngắn. Các tác phẩm của ông thường viết về cảnh ngộ của người nông dân và cuộc sống sinh hoạt của làng quê. "Làng" là một tác phẩm tiêu biểu của ông viết về đề tài đó. Truyện được sáng tác năm 1948 thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong truyện ngắn "Làng", nhà văn Kim Lân đã thể hiện một cách sinh động và tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính.
Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai đau đớn tủi hổ vô cùng. Tác giả đã diễn tả rất cụ thể diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trước cái tin dữ đó. Thoạt đầu, nghe được tin đột ngột từ người đàn bà tản cư nói ra, ông Hai bàng hoàng đến sững sờ. "Cổ họng ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như không thở được". "Ông sinh ra nghi ngờ, cố chưa tin vào cái tin ấy. Nhưng những người tản cư đã kể rành rọt quá làm ông không thể không tin". Từ lúc ấy, tâm trạng ông Hai bị ám ảnh, ray rứt với mặc cảm là kẻ phản bội. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông cúi gằm mặt xuống mà đi.
Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, tủi thân khi nhìn đàn con. "Nước mắt ông lão cứ dàn ra". "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?" Ông giận lây và trách cứ những người trong làng phản bội. Tủi thân, ông Hai thương con, thương dân làng chợ Dầu, thương thân mình phải mang tiếng là dân làng Việt gian.
Suốt mấy ngày hôm sau, ông Hai không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở xó nhà, nghe ngóng tình tình bên ngoài. Ông sống trong tâm trạng nơm nớp lo sợ, xấu hổ và nhục nhã. Cứ thoáng nghe thấy Tây, Việt gian, cam-nhông là ông lại "lủi ra một góc nhà nín thít".
Ông Hai tiếp tục bị đẩy vào một tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt khi nghe tin mụ chủ nhà sẽ đuổi hết người làng chợ Dầu ở nơi tản cư. Ông cảm nhận được hết nỗi nhục nhã, lo sợ vì tuyệt đường sinh sống: "Biết đi đâu bây giờ". Bị đẩy vào đường cùng, tâm trạng ông Hai vô cùng bế tắc, mâu thuẫn nội tâm được đẩy đến đỉnh điểm. Ông nghĩ hay là quay về làng nhưng lại hiểu rõ thế là phản bội cách mạng, phản bội Cụ Hồ. Thế rồi ông đã dứt khoát theo cách của ông: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Rõ ràng, tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ được tình cảm với làng. Vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ.
Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời tâm sự với đứa con út. Qua lời tâm sự với con, chúng ta thấy rõ một tình cảm sâu nặng và bền chặt với cái làng chợ Dầu, một tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng của con người ông Hai. Tình cảm đó là sâu nặng và thiêng liêng.
Khi nghe tin làng chợ Dầu không theo giặc, ông Hai sung sướng vô cùng. Cái nét mặt buồn thiu hàng ngày bỗng vui tươi, rạng rỡ hẳn lên. Ông còn thay đổi thái độ với các con: Mua bánh rán về chia cho các con. Sau đó ông chạy đi báo cho mọi người biết cái tin Tây nó đốt nhà mình rồi. Nhà bị giặc đốt mà ông không buồn không tiếc, lại lấy đó là niềm tự hào bởi đây là bằng chứng duy nhất chứng minh lòng trung thành của gia đình ông, của làng ông với kháng chiến. Tình yêu làng của ông Hai luôn gắn chặt với lòng yêu nước. Ông biết đặt tình yêu nước lên trên tình cảm cá nhân của mình. Phải chăng đó là nét đẹp trong con người ông Hai nói riêng và những người nông dân Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nhân vật ông Hai được khắc họa nhờ những yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính được miêu tả một cách cụ thể, gợi cảm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ. Ngôn ngữ nhân vật ông Hai mang đậm tính khởi ngữ, là lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân, bộc lộ rõ tâm trạng và thái độ của nhân vật. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, sinh động.
Tóm lại, truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi tin đó được cải chính. Qua diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai, ta thấy được một tình yêu làng yêu nước tha thiết gắn với tinh thần kháng chiến của nhân vật ông Hai. Ông Hai chính là hình ảnh tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
....
Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc
Kim Lân là một nhà văn hiện thực tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam. Ông có một tình cảm mãnh liệt dành cho những người nông dân nghèo, vì vậy mà các tác phẩm của ông thương viết về đề tài người nông dân, nông thôn. "Làng" được Kim Lân "thai nghén" và cho ra đời năm 1948. Nhân vật chính trong tác phẩm là ông Hai, người nông dân có tình yêu làng tha thiết. Những diễn biến tâm trạng của ông khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai về người nông dân chân chất, yêu nước, yêu làng sâu sắc, tha thiết.
Ông Hai là người nông dân yêu làng, ông luôn tự hào và hãnh diện về ngôi làng Chợ Dầu của mình. Ở nơi tản cư, đi đâu ông Hai cũng "khoe" về làng mình, về truyền thống đấu tranh anh dũng, hào hùng của làng. Ông khoe làng mình đứng lên khởi nghĩa, tham gia những buổi tập chiến, nhập phong trào, ông khoe cả những ụ, những hào giao thông của làng,...Ông yêu cái làng hơn tất thảy những gì ông có, bởi thế mà ngày tản cư ông đâu nỡ chịu đi, đến khi bắt buộc phải rời xa thì ông càng tủi cực, buồn khổ: "ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm". Đến nơi tản cư, ông càng nhớ làng da diết, ông nhớ những tháng ngày cùng anh em làm việc, bảo vệ, dựng xây quê hương "Ô, sao mà độ ấy vui thế". Để khỏa lấp nỗi nhớ làng, hàng ngày ông chăm chỉ đi nghe những tin tức thời sự, tin tức kháng chiến, xem nó như một món ăn tinh thần không thể thiếu.
Nhưng rồi, như một tiếng sét giữa trời quang, ông Hai nghe được từ người tản cư về việc làng Chợ Dầu theo giặc. Còn gì đau đớn hơn điều ấy, khi niềm tin về ngôi làng mà bấy lâu ông yêu thương tha thiết như vụn vỡ. Càng yêu, càng hãnh diện về làng thì ông Hai càng đau khổ, bàng hoàng khi nghe tin làng mình theo giặc "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được". Sự thay đổi trên nét mặt, hành động đã cho thấy được nội tâm đầy đau đớn của ông. Trên đường về nhà, ông Hai "cúi gằm mặt xuống mà đi", cảm tưởng như đang mất một thứ gì rất quý giá mà bấy lâu mình hằng trân trọng, gìn giữ.
Về đến nhà, sự ê chề, tủi hổ trào dâng trong lòng ông "nước mắt ông cứ giàn ra", ông thương xót, lo lắng cho đàn con "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy". Bằng cảm quan tinh tế, Kim Lân đã vẽ nên rõ nét tâm trạng của nhân vật qua sự xếp đặt ngôn từ có ý đồ để khắc họa sống động những dòng cảm xúc phức tạp của ông Hai. Trong người nông dân tội nghiệp ấy chỉ còn những nhục nhã, mặc cảm khi nghĩ chính mình là một tội đồ của đất nước, của cách mạng "Cực nhục chưa, cả làng Việt gian...Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước". Chính những suy nghĩ ấy đã hành hạ lão khổ sở đến tột cùng. Những ngày sau đó, cả gia đình ông Hai sống trong sự ảm đạm, thê lương, cả vợ và các con lão cũng đều cảm nhận được sự thay đổi ấy: "Gian nhà lặng đi...Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà ."
Cũng từ hôm đó, ông Hai lúc nào cũng mang trong mình nỗi bất an, tủi nhục ê chề. Ông không dám nhắc tới câu chuyện phản bội của làng. Thậm chí, ông xấu hổ tuyệt giao với những người hàng xóm xung quanh mình "không dám bước chân ra đến ngoài". Chỉ nghe một tiếng xì xầm, xôn xao đâu đây ông cũng ngỡ là người ta đang bàn về "chuyện ấy"- chuyện cái làng theo giặc. Chuyện mà vợ chồng ông Hai lo lắng nữa là bà chủ nhà biết tin, sẽ đuổi cả gia đình đi, rồi con cái họ sẽ đi về đâu, sống như thế nào. Khi chuyện đến tai chủ nhà, bà chủ đến bóng gió đuổi gia đình lão, ông Hai phải đối mặt với khó khăn "Thật là tuyệt đường sinh sống... đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi". Nỗi đau đã nhức nhối, nỗi lo lắng lại càng tột cùng, thật là khổ càng thêm khổ, tủi càng thêm tủi.
Dù yêu làng bao nhiêu, nhưng làng theo giặc thì ông Hai không thể nào làm ngơ mà bảo vệ cái sai của làng "Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ...". Câu nói chưa dứt hẳn, nước mắt ông đã "giàn ra". Bật ra những lời ấy trong nỗi niềm khôn tả, hẳn ông đã rất đau, một nỗi đau khi phải đứng giữa hai lựa chọn: ngôi làng ông hết mực trân quý hay cách mạng cụ Hồ. Để khuây khỏa cho những nghĩ suy của mình, ông tâm sự với đứa con thơ dại. Lời nói của đứa con thơ "Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm" cũng chính là những lời từ đáy lòng người nông dân yêu làng, yêu nước, lời của một người trung thành với cách mạng, với cụ Hồ, tình cảm ấy, tấm lòng ấy thật đáng trân trọng biết bao. Những diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đã thể hiện được tình cảm chân thành của một người yêu nước. Qua đó bộc lộ tình cảm, sự tin yêu của tác giả dành cho những người nông dân Việt, họ tuy nghèo nhưng giàu tình cảm, yêu quê hương, đất nước và trung thành tuyệt đối với cách mạng.
Bằng việc sử dụng các biện pháp đối thoại, độc thoại nội tâm, ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ và đặc biệt là ngòi bút tài hoa trong khắc hoạ diễn biến tâm lí nhân vật, Kim Lân đã dựng nên một ông Hai đầy chân thực với những phẩm chất tốt đẹp, đáng trân trọng . Đó là một chân dung sống động về người nông dân chất phác, thật thà, yêu quê hương đất nước thiết tha, cảm động.
Phân tích và chứng minh diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo giặc
Kim Lân là một nhà văn có tên tuổi trong văn đàn Việt Nam. ông viết rất ít, suốt từ năm 1962 đến nay, ông không viết tác phẩm nào khác ngoài hai tập truyện ngắn Con chó xấu xí và Nên vợ nên chồng. Tuy nhiên, ông đã để lại trong lòng người đọc một dấu ấn sâu đậm, một phong cách rất riêng. Điều đó đã được thể hiện sinh động qua truyện ngắn Làng. Tác phẩm đã cuốn hút người đọc qua việc thể hiện tinh thế và sinh động diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai, đặc biệt là khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
Ông Hai là một người nông dân, sống trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông yêu cái làng quê của mình, làng Chợ Dầu như yêu chính bản thân mình vậy. Thế nên, khi ông đi tản cư xuống vùng Bắc Giang, ông suốt ngày khoe về làng của mình, đặc biệt là về tinh thần kháng chiến. Thế nhưng, ngay giữa cái lúc ông Hai đang náo nức, tự hào về tin thắng lợi kháng chiến thì ông hay tin làng Chợ Dầu theo giặc. Qua việc đặt nhân vật vào tình huống gay gắt như vậy, tác giả đã bộc lộ. tâm lí, thái độ nhân vật qua nhiều phương diện.
Tác giả đã diễn tả chi tiết, cụ thể, tỉ mỉ, khai thác mọi biểu hiện, cử chỉ nét mặt đến suy nghĩ nội tâm bên trong để làm nổi bật nỗi đau. xót, nhục nhã, tủi hổ ê chề, nỗi ám ảnh nặng nề, sợ hãi trong lòng ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc, ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được... hay ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi.
Qua ngôn ngữ đối thoại và độc thoại, ta càng thấm thía thêm nỗi lòng đau xót của ông Hai khi hay làng mình là làng kháng chiến, ông nói một mình, khi thì chửi, hét lên rằng: Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này. Mặc dù sau đó, ông cô trấn tĩnh, tự an ủi mình nhưng cũng không xoa dịu nỗi bực bội, u uất trong ông, một con người tình đi khoe khắp nơi về làng cứ như thể trên khắp thế giới này không nơi đâu tuyệt như làng ông, vậy mà lại nghe tin làng mình theo giặc, ông tự hỏi mình: Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?. Tin làng Dầu theo giặc đẩy gia đình ông Hai tới nỗi bế tắc, tuyệt vọng có nguy cơ bị đuổi. Trong ông đang diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt, ông đã phải lựa chọn một bên là làng, một bên là kháng chiến, là cách mạng: Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi là phải thù. Lòng yêu nước, trung thành với kháng chiến bao trùm lên tình yêu làng. Tuy đã xác định như thế nhưng lòng ông vẫn day dứt, tủi hổ khi nhớ về làng mình. Điều này được thể hiện qua cuộc trò chuyện với đứa con trai mới chỉ ba tuổi, rằng nhà ta ở làng Chợ Dầu và ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm. Ổng lão như đang tự nói với lòng mình, tự an ủi, vỗ về chính bản thân mình..
Thông qua việc miêu tả chi tiết, cụ thể, tỉ mỉ, chính xác diễn biến nội tâm nhân vật, ý nghĩ, cử chỉ, ngôn ngữ, đặt nhân vật vào tình huống thử thách, bộc lộ chiều sâu tâm trạng, Kim Lân đã thể hiện tinh tế và sinh động diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo giặc. Qua đó đã thể hiện chân thực, sinh động tình cảm yêu làng thống nhất, tinh thần kháng chiến của nhân vật ông Hai một nông dân rời làng đi tản cư trong kháng chiến chống Pháp.
Phân tích và chứng minh diễn biến tâm trạng tinh tế và sinh động của ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo giặc
Kim Lân là nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp, ông có sở trường về viết truyện ngắn, các tác phẩm của ông không nhiều nhưng đều tạo nên giọng văn trữ tình đậm đà để lại cho người đọc đến tận ngày nay nhiều ấn tượng sâu sắc. Truyện ngắn Làng là tác phẩm thể hiện được phần nào phong cách viết văn của nhà văn Kim Lân, đặc biệt là cách miêu tả diễn biến tâm lí phức tạp của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Có thể nói, nhà văn Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sinh động tâm tư tình cảm của ông Hai người nông dân rời làng đi tản cư trước cái tin dữ làng Chợ Dầu yêu quý của ông làm Việt gian bán nước.
Kim Lân đã tạo ra một tình huống gay cấn để bộc lộ tình yêu làng của ông Hai. Ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc trong khi ông đang tự hào về các chiến công của quân và dân ta từ khắp nơi dội về. Ông náo nức, phấn khởi, hãnh diện hả hê mà nói rằng: Cứ chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí thì thằng Tây bước sớm. Ruột gan ông cứ múa cả lên. Sướng quá! Thế nhưng cái niềm vui ấy chưa được lâu thì ông nhận được cái tin như sét ngang tai: Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây từ miệng của mụ đàn bà từ dưới xuôi lên tản cư Cả làng chúng nó là làng Dầu yêu quý của ông, cái làng mà ông vẫn tự hào về tinh thần kháng chiến. Bởi thế, khi nghe cái tin dữ chết người ấy, ông Hai rơi vào trạng thái tâm lí bàng hoàng, sửng sốt: cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như không thở được... Rồi một lúc lâu sau ông mới cất tiếng hỏi lại giọng lạc hẳn đi... Lúc này đây trong ông không còn niềm kiêu hãnh mà chỉ là một sự bẽ bàng khiến ông xấu hổ. Ông cười nhạt một tiếng vờ lảng đi chỗ khác rồi đi thẳng. Nhà văn Kim Lân đã diễn tả một cách tỉ mỉ cụ thể tâm tư trong lòng ông Hai dường như chính ông hay những người ruột thịt của ông đã làm cái việc đê hèn như vậy. Rồi ông rơi vào tình trạng tủi hổ, ê chề: Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi... về đến nhà ông lão nằm vật ra giường... Rồi nhìn lũ con tủi thân nước mắt ông lão cứ tràn ra. Một cử chi hành động chán chường của ông, những giọt nước mắt hiếm hoi của người đàn ông khi tuổi đã cao rồi những suy nghĩ day dứt trong nội tâm của ông: Chúng mày cũng là những trẻ con làng Việt gian đây rồi cái cử chỉ ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên: Chúng mày ăn miếng gì vào mồm mà làm cái giống Việt gian bán nước nhục nhã... Tất cả đều tập trung thể hiện nỗi đau đớn nhục nhã ê chề trong lòng ông Hai và niềm tin về cái làng Chợ Dầu có tinh thần kháng chiến triệt để khiến ông nghi ngờ: Ông kiểm điểm từng người trong óc. tất cả những suy nghĩ ấy cứ bám riết trong đầu ông Hai khiến cho lòng ông đau đớn tan nát. Nỗi đau đớn nhục nhã biến thành nỗi sợ hãi lo lắng ám ảnh thường xuyên, ông chỉ dám quanh quẩn ở nhà, nghe ai đó nói to ông cũng giật mình chỉ sợ nói đến cái chuyện ấy. Ông Hai đã giải tỏa nỗi bế tắc trong lòng bằng cuộc trò chuyện đầy cảm động của ông và thằng con út. Những lời thủ thỉ với đứa con nhỏ thực chất là lời tự nhủ tự giãi bày với lòng mình, ông mong mọi người hiểu cho bố con ông. Cuộc trò chuyện cảm động ấy thể hiện rõ tình yêu sâu nặng của ông với làng Chợ Dầu đồng thời khẳng định rõ tấm lòng thuỷ chung với cách mạng, với kháng chiến, với Bác Hồ. Kim Lân đã diễn tả thật cảm động và sinh động nỗi sâu xa bền chặt của ông.
Ông Hai coi danh dự của làng là danh dự của mình. Ông đau đớn khi nghe tin làng Dầu theo giặc. Tình yêu làng của ông Hai hòa quyện thống nhất trong tình yêu đất nước.
Đoạn văn phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai
Trong truyện ngắn "Làng", nhà văn Kim Lân đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật điển hình đặc sắc, đó là nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu nước, yêu cách mạng. Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện rõ nhất qua những diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính. Lúc nghe tin nhà bị giặc đốt, làng bị xâm chiếm, ông Hai vui sướng vô cùng. Cái nét mặt vừa buồn thui, chán nản, mệt mỏi trước đó bỗng tươi tỉnh và rạng rỡ hẳn. Ông vui vẻ ra đường mua bánh về chia cho những đứa con thân yêu của mình rồi đi đây đó khoe với những người ông gặp cái tin nhà bị Tây đốt bằng niềm hồ hởi như một đứa trẻ vừa được ai đó khen tặng. Ông xem việc nhà bị Tây đốt là niềm tự hào bởi đó là mình chứng cho sự trong sạch, sự trung thành của gia đình ông, của quê hương ông với cách mạng, với kháng chiến. Có thể nói ông đã đặt tình yêu nước trên cả những tình cảm, lợi ích cá nhân, gia đình. Bằng tình huống truyện mở nút, cùng cách xây dựng nhân vật qua điệu bộ, cử chỉ, hành động, Kim Lân đã làm sáng ngời những vẻ đẹp trong phẩm chất của nhân vật. Qua đó, cũng bày tỏ niềm trân trọng của tác giả dành những người nông dân Việt Nam chân chất, thật thà, yêu cách mạng.
....
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!