Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận về truyện ngắn Làng của Kim Lân 2 Dàn ý & 9 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất
TOP 9 bài văn Cảm nhận về truyện ngắn Làng hay nhất của các bạn học sinh giỏi trong cả nước, kèm theo 2 dàn ý chi tiết, giúp các em thấy rõ tình yêu làng, yêu nước tha thiết của nhân vật ông Hai.
Đồng thời, còn có cả gợi ý liên hệ, mở rộng truyện ngắn Làng cho các em lồng ghép vào bài văn của mình thêm sinh động. Qua đó, các em thấy được những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:
Cảm nhận của em về truyện ngắn Làng hay nhất
- Dàn ý cảm nhận về truyện ngắn Làng của Kim Lân
- Cảm nhận của em về truyện ngắn Làng
- Cảm nhận về truyện ngắn Làng của Kim Lân
- Cảm nhận truyện ngắn Làng của Kim Lân
- Phát biểu cảm nghĩ về truyện ngắn Làng của Kim Lân
- Phát biểu cảm nghĩ về truyện ngắn Làng
- Cảm nghĩ của em về tác phẩm Làng
- Cảm nghĩ về truyện ngắn Làng
- Truyện ngắn Làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì?
- Viết đoạn văn trình bày cảm nhận về truyện ngắn Làng
- Gợi ý liên hệ, mở rộng dành cho truyện ngắn Làng
Dàn ý cảm nhận về truyện ngắn Làng của Kim Lân
Dàn ý 1
I. Mở bài
- Bất cứ loài cây nào cũng phải cần cù, siêng năng chắt chiu sức sống từ trong lòng đất thì mới có thể tỏa ra một màu xanh sự sống, mới có thể đơm hoa kết trái ngọt lành. Tác phẩm văn học cũng vậy: phải “Bắt rễ ở cuộc đời hằng ngày” thì tác phẩm “Văn nghệ mới tạo ra được sự sống cho tâm hồn con người”.
- Với tác phẩm Làng, nhà văn kim Lân đã làm được điều đó.
II. Thân bài:
1. Giải thích
– “Bắt rễ ở cuộc đời hằng ngày của con người”
- Cuộc đời hằng ngày là những gì đang diễn ra xung quanh ta.
- Đó là mảnh đất tươi tốt nuôi dưỡng tác phẩm nghệ thuật, làm nên sức sống của tác phẩm nghệ thuật. Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống, phải bắt rễ từ cuộc sống con người.
– “ Văn nghệ mới tạo ra được sự sống cho tâm hồn con người”: nhà văn đã gửi gắm vào mỗi tác phẩm văn học những tâm tư, tình cảm, những thông điệp, chiêm nghiệm của mình về cuộc sống. Đến lượt mình, văn học tác động đến tâm hồn con người, bồi đắp tâm hồn con người với những cảm xúc, những tâm tư, khát vọng … là cho đời sống con người trở nên phong phú hơn, hứng tới những giá trị của cuộc sống, chân, thiện, mĩ…
Tóm lại, nhờ bắt rễ từ cuộc sống, tác phẩm văn học đã góp phần làm cho đời sống tâm hồn con người trở nên phong phú hơn, tốt đẹp hơn.
2. Chứng minh
a. Truyện ngắn “Làng” bắt rễ từ cuộc đời hằng ngày của con người
Hiện thực cuộc sống và tâm tư tình cảm của người nông dân trong buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đã là mảnh đất để tác phẩm Làng “bắt rễ”.
- Có những người nông dân nghèo như ông Hai, trước cách mạng chỉ là nô lệ cho thằng Tây, chịu áp bức của bọn kì lí, nhờ cách mạng mới biết đến cuộc đời tự do. Họ rất yêu làng, yêu nước, gắn bó với cách mạng, với kháng chiến
- Pháp quay trở lại xâm lược, những người nông dân trở thành dân quân du kích bảo vệ quê hương, nhiều người phải đi tản cư theo chủ trương của kháng chiến.
- Tin Làng theo Tây là hiện thực đâu đó xảy ra trên nước ta trong những năm kháng chiến. Hình ảnh những người dân rơi vào tâm trạng bế tắc tuyệt vọng khi sống với những tin đồn thất thiệt. Nhưng điều quan trọng là trong tình cảm, suy nghĩ vẫn đang trọn cho cách mạng, kháng chiến.
Như vậy, cuộc đời hằng ngày đã là chất liệu để người nghệ sĩ sáng tác nên tác phẩm văn học.
b. Tác phẩm văn nghệ “ Tạo ra sự sống cho tâm hồn con người”.
– Tác phẩm Làng đã “ tạo ra sự sống cho tâm hồn con người” trong tác phẩm.
- Tình yêu làng, yêu nước đã làm cho những người nông dân như ông Hai có sự chuyển biến trong tư tưởng nhận thức từ bóng tối ra ánh sáng và hướng trọn lòng mình về quê hương, đất nước, Tổ quốc, nhân dân.
- Không chỉ ông Hai mà những con người trong tác phẩm từ một em bé ngây thơ như thằng Húc đến một người xấu người xấu nết như mụ chủ nhà nhưng qua cách viết của Kim Lân, họ vẫn hoặc là thể hiện cảm nhận được lòng yêu làng, yêu nước, giúp cho họ biết sống đẹp hơn.
– Tác phẩm Làng đã “tạo ra sự sống tâm hồn con người” trong cuộc sống:
- Từ hình ảnh ông Hai và những con người trong câu chuyện, chúng ta hiểu thấm thía và được bồi đắp tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước.
- Và đặt trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình cảm đó luôn người sáng, trọn vẹn, thủy chung.
Tác phẩm văn nghệ có sức mạnh kì diệu mang đến sự sống cho tâm hồn con người. Vì thế, truyện ngắn Làng không phải là truyện của một thời về tình cảm thiêng liêng khi ta biết dành tình yêu cho gia đình, quê hương, đất nước.
III. Kết bài
- Truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân thực sự là một tác phẩm có giá trị, đó là một tác phẩm “Bắt rễ ở cuộc đời hằng ngày, văn nghệ mới tạo ra được sự sống cho tâm hồn con người”.
- Tác phẩm không chỉ cho ta thấy tài đựng truyện, khả năng phản ánh hiện thực của nhà văn Kim Lân mà còn đem đến những điều tốt đẹp, làm giàu có thêm tâm hồn con người.
Dàn ý 2
1. Mở bài
- Sơ lược về Kim Lân và phong cách sáng tác của ông.
- Giới thiệu truyện ngắn Làng.
2. Thân bài
a. Hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa nhan đề:
- Viết năm 1948, là truyện ngắn viết về đề tài người nông dân trong giai đoạn những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Nhan đề Làng có tính khái quát, chỉ chung cho nông thôn Việt Nam, gợi ra hình ảnh làng quê dân dã, với những người nông dân cần cù chân chất, khơi gợi tình yêu thương, gắn bó trong tâm hồn mỗi con người
b. Nhân vật ông Hai trước khi nghe tin Làng theo giặc:
- Yêu và gắn bó với làng tha thiết.
- Một lòng hướng về làng, ông đi khoe khắp nơi về làng của mình để vơi bớt nỗi nhớ thương, ông hào hứng kể về làng Chợ Dầu, tự hào về một ngôi làng có truyền thống cách mạng.
=> Tình yêu làng vô bờ bến, cùng với tấm lòng tin tưởng vào cách mạng sâu sắc.
c. Khi ông Hai nghe tin Làng theo giặc:
- Sửng sốt, đau đớn, không tin làng theo giặc, hy vọng những tin tức mình nghe được là lầm.
- Sao khi nhận được câu trả lời thì ông Hai dường như bị rút hết tất cả sức lực, hy vọng và tình yêu nồng nàn của ông với làng, ông xấu hổ, ông đau khổ và cảm thấy chưa lúc nào lại đắng cay đến độ này => Khóc.
- Ông khổ sở, ông không dám bước ra gặp ai, trở nên cáu bẳn, gắt gỏng với cả vợ con, ông trằn trọc không thể nào ngủ yên giấc, rồi trở nên nhạy cảm với tất cả lời bàn tán, sợ hãi việc bị đuổi đi trong nhục nhã,…
- Quyết tâm không trở về làng, dù có yêu làng thế nào đi chăng nữa, nhưng làng đã theo giặc thì phải thù.
=> Ông là người rạch ròi biết phân biệt phải trái, tấm lòng trung trinh với cách mạng không đổi dời khiến người ta phải kính nể.
d. Tâm trạng ông Hai khi nghe tin cải chính:
- Phấn khởi và vui mừng khôn xiết, ông như được hồi sinh.
- Hào hứng khoe chuyện nhà mình bị giặc đốt nhắn, chứng tỏ sự hy sinh cho cách mạng.
- Vội vàng đi khắp nơi đính chính hùng hồn để minh oan cho làng và cho bản thân.
3. Kết bài:
- Nêu cảm nhận.
Cảm nhận của em về truyện ngắn Làng
Nhà văn Kim Lân được biết đến là nhà văn của nông dân và nông thôn Việt Nam. Những trang viết của ông luôn mang sự gần gũi, giản dị, gắn liền với hình ảnh con người, làng quê Việt Nam. Đến với truyện ngắn “Làng”, ta lại bắt gặp chân dung người nông dân Việt Nam chất phác, mang lòng yêu quê hương, yêu nước sâu sắc qua hình ảnh nhân vật ông Hai.
Ông Hai - nhân vật chính của toàn bộ câu chuyện- đã được tác giả Kim Lân khắc họa chân thực, mang trong mình tình yêu làng chân chất, tình yêu quê hương, đất nước mãnh liệt. Tình huống truyện éo le được đặt ra khi gia đình ông Hai phải đi tản cư do quân Pháp đến đánh chiếm làng. Dù không ở lại, nhưng trong lòng ông Hai vẫn luôn đau đáu nhớ làng, luôn nghe ngóng mọi tin tức về làng Chợ Dầu của mình. Trớ trêu thay, ông Hai lại nghe được tin Làng Chợ Dầu của mình đi theo giặc. Đau đớn, tủi hổ, ông Hai không còn tin vào tai mình khi bắt đầu nghe tin làng quê mình theo Tây. Lòng yêu làng từ trước đến nay không bao giờ thay đổi, tình yêu đó là nỗi nhớ mong khi phải xa, là niềm đau đáu mỗi khi nhớ về những kỉ niệm cùng anh em ở làng đào hào, đắp ụ…Mà giờ đây, ông Hai lại phải đứng giữa lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu nước. Và ông đã khẳng định chắc nịch “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Vậy là, niềm tin tưởng vào ánh sáng của Cách mạng, của Cụ Hồ của ông Hai dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn bền chắc nhất, cho dù nó là sự đánh đổi một tình yêu thiêng liêng với mảnh đất quê hương chôn rau cắt rốn. Sự lựa chọn ấy đã thể hiện rõ nhất tình yêu cũng như niềm tin tưởng vào ánh sáng của Đảng của người dân Việt Nam. Cuối cùng, ông Hai lại như vỡ òa trong niềm sung sướng khi nghe tin cải chính, nghe tin làng mình không những không theo Tây mà còn đứng lên đấu tranh rất kiên cường.
Truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân đã thể hiện nổi bật và rõ nét phẩm chất, niềm tin của người nông dân Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, được thể hiện rõ qua hành động, suy nghĩ của nhân vật ông Hai. Tình huống truyện đã đặt nhân vật vào một sự lựa chọn không hề dễ dàng. Tình yêu nào cũng là thiêng liêng và đáng trân trọng, và nhất là tình yêu quê hương, yêu đất nước. Nhưng thật trớ trêu khi hai tình cảm thiêng liêng nhất ấy lại đặt ra cho người nông dân chất phác, hiền lành phải có sự lựa chọn. Và cuối cùng, tình yêu nước đã chiến thắng tất cả. Ông Hai quả thực là một người nông dân chân chất, điển hình cho hình ảnh những người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Khi xa quê, ông cũng luôn tự hào mà nhớ về những ngày tháng cùng anh em trong làng lao động, đào hào, đắp ụ…Và dù xa quê, ông vẫn luôn mong ngóng ngày trở về. Nhưng khi nghe tin làng theo giặc, thì một sự sụp đổ về niềm tin đã làm ông Hai đau lòng và tủi hổ biết bao nhiêu. Sự xấu hổ đến tột cùng khi nghe tin làng theo Tây làm “Cổ họng ông nghẹn ắng. Da mặt tê rân rân”. Ông xấu hổ, vì ông thấy mình xuất thân từ làng mang mác theo giặc, xấu hổ vì lòng tự trọng của một con người yêu quê biết bao mà quê mình lại phản Cách mạng. Qua cuộc trò chuyện với đứa con nhỏ, ông Hai càng thêm khẳng định một niềm tin chắc nịch về niềm tin với Đảng và với Bác Hồ. Khi nghe tin cải chính, ông Hai đã như vỡ òa trong niềm sung sướng. Có thể theo lẽ bình thường, khi nghe tin nhà mình bị đốt, người ta sẽ phải ngậm ngùi mà tiếc của, xót xa mà kêu than. Nhưng, ông Hai lại khác, ông cứ đi khoe hết cho người nọ người kia về việc nhà mình đã bị đốt. Đó tưởng chừng như sự vô lý, nhưng đặt vào hoàn cảnh của nhân vật lại vô cùng hợp lý. Ông Hai muốn khoe về việc nhà mình bị đốt, như là một minh chứng rõ ràng cho việc làng Chợ Dầu quê ông không theo giặc. Vậy là, sự mất mát của cá nhân đã bị quên đi để thay vào đó là niềm tự hào cho quê hương chợ Dầu.
Qua tác phẩm, nhà văn Kim Lân đã khắc họa chân thực và nổi bật nhân vật ông Hai tiêu biểu cho hình ảnh những người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Họ là những con người hết sức bình dị, chân chất, nhưng ẩn sâu đằng sau đó là một tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt. Cách mạng và kháng chiến đã đem lại nhận thức, tình cảm mới mẻ, mang đến niềm tin vững bền cho người nông dân. Tình cảm truyền thống yêu quê hương bao đời nay của người nông dân đã được nâng lên thành tình yêu nước sâu sắc. Đó cũng chính là tiền đề để tạo nên sức mạnh nhân dân, để có thể đánh thắng, đánh tan mọi kẻ thù xâm lược.
Tác giả Kim Lân đã vận dụng sáng tạo và thành công cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, cách miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật chân thực mà điêu luyện. Tác giả đã để cho nhân vật của mình trải qua những đấu tranh về mặt tâm lý, để nhân vật đưa ra những suy nghĩ, lựa chọn mang tính bước ngoặt cho câu chuyện. Truyện ngắn “Làng” cũng đã rất thành công khi xây dựng được hình ảnh nhân vật ông Hai tiêu biểu cho phẩm chất của người nông dân Việt Nam thời bấy giờ. Dù là ngày ấy hay bây giờ, thì tình yêu quê hương, yêu đất nước luôn cần được giữ gìn và phát huy.
Cảm nhận về truyện ngắn Làng của Kim Lân
“Làng quê”, hai tiếng thật êm đềm và thân thuộc biết bao. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ hướng ngòi bút của mình về giếng nước, gốc đa, con đò… hướng về những người nông dân thật thà, chất phác. Kim Lân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn và khai thác rất thành công về đề tài này. Truyện ngắn “Làng” là một truyện ngắn thành công của Kim Lân gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.
Kim Lân vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc với cuộc sống và con người ở nông thôn Việt Nam nên các truyện gắn của ông thường gây ấn tượng độc đáo, rất giản dị, chân chất về đề tài này. Truyện ngắn Làng cũng vậy, truyện ra đời trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc. Câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Hai và tình yêu làng Chợ Dầu. Với những chuyển biến trong nhận thức và suy nghĩ, ông Hai đã trở thành một điển hình của người nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.
Như bao con người Việt Nam khác, ông Hai cũng có một quê hương yêu thương, gắn bó. Làng Chợ Dầu luôn là niềm tự hào và là kiêu hãnh của ông. Ông luôn khoe về làng mình, đức tính ấy như đã trở thành bản chất. Ông cũng như mọi người nông dân Việt Nam khác, có quan niệm rằng “Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, đối với họ, không có bất cứ đâu đẹp hơn nơi chôn rau cắt rốn của mình. Trước cách mạng, mỗi khi kể về làng, ông đều khoe về cái sinh phần của viên tổng đốc sừng sững ở cuối làng. Sau Cách mạng, làng ông đã trở thành làng kháng chiến, ông đã có nhận thức khác. Ông Hai không còn khoe về cái sinh phần ấy nữa mà ông lấy làm hãnh diện với sự cách mạng của quê hương, về việc xây dựng làng kháng chiến của quê mình. Ông khoe làng có “những hố, những ụ, những giao thông hào”, “có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”… Kháng chiến bùng nổ, ông Hai bất đắc dĩ phải rời làng đi tản cư. Trong những ngày buộc phải rời xa làng tâm trí ông luôn nhớ về nơi ấy, về những anh em đồng chí của mình, ông muốn “cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào,khuân đá…’’.
Ở nơi tản cư, ông luôn đến phòng thông tin để theo dõi và mong ngóng tin tức về làng nhằm nguôi ngoai nỗi nhớ. Trong lúc mong tin làng, những tin vui chiến thắng ở khắp nơi khiến ông vui sướng vô cùng, “ruột gan cứ múa cả lên”. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc từ người đàn bà đi tản cư, ông Hai vô cùng sửng sốt, “cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được” . Đến khi nghe kể rành rọt, không thể không tin vào điều xấu ấy, niềm tin và tình yêu bấy lâu nay của ông về làng như sụp đổ. Ông đã “gầm mặt xuống”, đánh trống lảng rồi bước đi như kẻ trốn nợ. Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người nhưng lại không tin họ theo giặc. Mấy hôm liền, ông không dám đi đâu vì xấu hổ, luôn bị ám ảnh cái tinh khủng khiếp ấy và hay hốt hoảng giật mình. Những ngày này mâu thuẫn nội tâm trong con người ông Hai diễn ra một cách quyết liệt và ngày càng dâng cao. Đã có lúc ông nghĩ đến việc “quay về làng” nhưng ông đã dứt khoát “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”, “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tuy quyết định như thế nhưng ông vẫn rất đau đớn xót xa. Tất cả những cử chỉ của ông Hai khẳng định tình yêu làng của ông đã hòa quyện vào cuộc kháng chiến của dân tộc và ông sẽ gắn bó cả cuộc đời với nó bằng suy nghĩ và hành động. Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông trút nỗi lòng vào lời nói với đứa con út ngây thơ: “Bố con mình theo kháng chiến, theo Cụ Hồ con nhỉ?” để giãi bày tâm sự, trút bỏ, an ủi lòng mình. Đồng thời, ông cũng truyền cả tình yêu nước sang cho con mình và khẳng định tình cảm của bố con ông với kháng chiến, với Cụ Hồ là trước sau như một.
Đau khổ là thế, lo âu là thế nhưng cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã được cải chính. Niềm vui trong ông Hai như vỡ òa. Ông chạy đi khoe ngay với bác Thứ rồi gặp bất cứ ai ông cũng khoe Tây đã đốt nhà mình như muốn chứng minh làng mình không theo giặc với tất cả niềm tin và tình cảm của ông. Đối với ông hai cũng như mọi người nông dân khác, con trâu, mảnh ruộng, gian nhà là vô cùng quý giá nhưng họ thà mất đi tất cả chứ không chịu mất nước và ý chí ý đã trở thành một truyền thống vô cùng tốt đẹp của dân tộc ta.
Cách mạng và sự nghiệp kháng chiến đã tác động mạnh mẽ, đem lại những nhận thức, những tình cảm mới lạ cho những người nông dân. Từ đó khiến họ nhiệt tình tham gia kháng chiến và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng, vào lãnh tụ. Ở nhân vật ông Hai, tình cảm đẹp đẽ có tính chất truyền thống của người nông dân Việt Nam là tình yêu làng quê đã được nâng lên thành tình yêu nước. Sự hòa quyện và gắn bó của tình yêu quê hương và tình yêu đất nước là nét mới mẻ trong nhận thức của người nông dân, của quần chúng cách mạng trong giai đoạn văn học chống Pháp.
Với kết cấu đơn giản, xoay quanh nhân vật ông Hai với tình yêu làng sâu sắc, “Làng” đã để lại trong lòng người đọc nhiều ý vị sâu sắc. Làng Nhà văn Kim Lân đã xây dựng rất thành công nhân vật ông Hai với các phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. Đồng thời nhà văn còn khôn khéo xây dựng tình huống thử thách làm bộc lộ chiều sâu tâm trạng của nhân vật. Tác giả đã miêu tả đặc biệt tài tình nội tâm của nhân vật với những suy nghĩ phức tạp, giằng xé. Tác giả đẩy các chi tiết đến cao trào rồi giải quyết một cách nhẹ nhàng, thỏa đáng và có hậu, tạo hứng thú và bất ngờ cho người đọc, người nghe. Cách sử dụng từ ngữ địa phương mộc mạc, gần gũi với nông dân trong đối thoại, giao tiếp kết hợp với sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của họ khiến những trang viết của Kim Lân thật gần gũi nhưng không kém phần sâu sắc.
Nhân vật ông Hai gây ấn tượng mạnh mẽ và để lại nhiều tình cảm tốt đẹp, sự yêu mến, trân trọng và cảm phục trong lòng người đọc. Tình yêu làng của ông Hai mang tinh chất truyền thống đã được nâng lên thành tình yêu nước nồng nàn như “ dòng suối đổ vào sông, dòng sông đổ vào dải trường giang Vônga, dòng sông Vôn Ga đi ra biển..”. Qua nhân vật ông Hai như là nông dân với những phẩm chất tốt đẹp bước từ đời thực vào tác phẩm, có được những biểu hiện cụ thể, sinh động về tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc.
“Làng” đã trở thành một truyện ngắn đặc sắc, Kim Lân đã thành công trong việc thể hiện những chuyển biến mới mẻ trong nhận thức và tình cảm của người dân Việt Nam. Nhân vật ông Hai đã trở thành một hình tượng điển hình cho những người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác nhưng luôn cháy bỏng tình yêu quê hương, yêu đất nước. Họ đã góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng và là nhân tố trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Bản thân mỗi chúng ta cần phải học tập tấm gương của họ, ngày càng yêu thương quê hương, đất nước mình hơn.
Cảm nhận truyện ngắn Làng của Kim Lân
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1920, quê ở Bắc Ninh. Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông đã có sáng tác đăng báo từ trước Cách mạng tháng Tám. Am hiểu sâu sắc, gắn bó với nông dân và nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ người nông dân. Truyện ngắn Làng là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948). Đây là một tác phẩm độc đáo viết về lòng yêu nước của ông Hai, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu quê hương, yêu nàng sâu sắc của ông. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở mỗi người nông dân Việt Nam ta trong những ngày đầu chống Pháp.
Ông Hai yêu cái làng Chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng Chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày mùa phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành công, nó đã giúp ông hiểu được sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào,…lắm công trình không để đâu hết.
Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang theo tất cả nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số phận của ông Hai gắn bó buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi “chôn rau cắt rốn” của mình trở thành một truyền thống và tâm lí chung của mọi người nông dân thời bấy giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn giản như: cây đa, giếng nước, sân đình…và nâng cao lên đó chính là: tình yêu đất nước. Tới đây, ta chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a-Ê-ren-bua: “lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Những ngày ở làng Thắng, ông Hai suốt ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng Chợ Dầu và ông nghe tin cả làng ông theo Tây. Cổ ông “nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”. Ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được. Ông cảm thấy đau đớn và nhục nhã vì cái làng Chợ Dầu yêu quý của mình theo giặc. Ông nguyền rủa bọn theo Tây: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Cũng chính từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe ngóng tin tức: Đến khi mụ chủ nhà đến báo không cho gia đình ông ở nữa, ông thấy tuyệt đường sinh sống và ông nảy ra ý định: “hay là quay về làng?” nhưng rồi ý nghĩ đó lập tức bị ông lão phản đối ngay vì: “Làng thì yêu thật, nhưng Làng theo Tây thì phải thù”. Có thể nói, với ông Hai, làng và nước bây giờ đã trở thành đối địch. Hai tình cảm này đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm trong long ông. Nhưng trong đó, tình yêu đất nước được ông Hai đặt lên trên hết.
Phải thực sự am hiểu sâu sắc về con người, nhất là tâm lí của người dân thì Kim Lân mới diễn tả đúng tâm trạng nhân vật như vậy. Trong những ngày này, nỗi niềm và tâm sự của ông được thể hiện trong những lời trò chuyện của ông với đứa con út. Trò chuyện với con như là để thanh minh cho làng mình. Ông hỏi con: “Con ủng hộ ai?”. Thằng bé giơ tay mạnh bạo và rành rọt: “ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm”. Cái lòng của bố con ông là thế đấy, “chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.
Thế rồi, một tin khác lại đính chính rằng làng ông không theo giặc. Những lo âu, xấu hổ tan biến. Thay vào đó là nỗi vui mừng, sung sướng. Ông đi từ đầu làng đến cuối xóm khoe cái tin làng mình không theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê: “Bác Thứ đâu rồi! Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết …cái tin, cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”. Qua lời khoe của ông Hai, điều làm ta cảm động đó là ông không hề tiếc hay buồn khi ngôi nhà của ông bị đốt. Niềm vui vì làng không theo giặc đã choán hết tâm trí ông. Mọi đau khổ, buồn tủi đã được rũ sạch.
Quả thật, Kim Lân rất thành công trong việc khắc họa hình ảnh của ông Hai, một trong những người dân bấy giờ: đơn giản, chất phác, tiêu biểu cho tầng lớp nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Họ đã đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu làng. Kim Lân đã thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, nhất là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ nhân vật mà ông Hai là điển hình. Lời nói của ông Hai đúng là lời nói của những người nông dân thời bấy giờ, kể cả những từ dung sai: “Bác Thứ đâu rồi…Láo! Láo hết! Toàn sai sự mục đích cả”. Bên cạnh đó, Kim Lân còn thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật. Diễn biến tâm lí của ông Hai từ đầu đến cuối truyện thật cảm động. Yêu làng đến nỗi đi đâu cũng khoe về làng. Khi biết làng bị tình nghi theo giặc thì ông đau khổ, tủi nhục. Khi biết làng mình không theo giặc, ông sung sướng, thậm chí còn khoe cả tin nhà mình bị đốt cháy một cách vui sướng, hả hê. Xây dựng được những chi tiết ấy, miêu tả sự phát triển tâm lí nhân vật như vậy, Kim Lân đã chứng tỏ được tài nghệ của mình.
Truyện Làng là một tác phẩm khá thành công viết về lòng yêu nước, yêu làng của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Kim Lân đã thể hiện được tài năng của mình qua tác phẩm này. Đọc tác phẩm, ta hình dung được một thời kì chống Pháp sôi nổi của nhân dân, mọi người đồng lòng theo Bác, theo Đảng kháng chiến đến cùng. Vì vậy mà cuộc chiến của ta đã giành được thắng lợi vẻ vang.
Phát biểu cảm nghĩ về truyện ngắn Làng của Kim Lân
Kim Lân (1920-2007), quê ở tỉnh Bắc Ninh, nhà nghèo nên chỉ học đến hết cập một rồi nghỉ, ông viết truyện ngắn từ năm 21 tuổi, với giọng văn chân chất, hiền hậu, thấm đượm tình quê hương của một người con lớn lên từ đồng ruộng. Các tác phẩm của ông không nhiều thế nhưng rất sâu sắc, đặc biệt là các tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam và người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Dù rằng mảnh đất về đề tài người nông dân đã được nhiều tác giả như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan khai thác gần như triệt để thế nhưng vào tay Kim Lân nó vẫn mang những nét riêng, mới lạ và hấp dẫn. Có được điều đó là bởi Kim Lân viết văn bằng một ngòi bút tỉ mẩn, cẩn trọng và sâu lắng, ông chú tâm đến những nét đẹp, những thay đổi trong đời sống tâm hồn của nhân vật. Đặc biệt trong tác phẩm của mình, dẫu rằng ông có viết về cái nghèo khó, cái hiện thực tàn khốc của xã hội thế nhưng nó lại không phải là nội dung chính Kim Lân muốn tố cáo hay phản ánh, mà cái ông mong muốn đó là làm nổi bật được những giá trị nhân đạo thông qua tác phẩm của mình bao gồm tình cảm giữa con người với nhau, tấm lòng yêu quê hương, đất nước sâu sắc, cùng những nét đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Làng là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Kim Lân làm nên tên tuổi của ông trên văn đàn Việt Nam, ở đó ta thấy được hầu hết những nét đặc biệt trong phong cách sáng tác của Kim Lân.
Làng viết năm 1948, là truyện ngắn viết về đề tài người nông dân trong giai đoạn những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhan đề Làng một một nhan đề có tính khái quát, chỉ chung cho nông thôn Việt Nam, gợi ra hình ảnh làng quê dân dã, với những người nông dân cần cù chân chất, khơi gợi tình yêu thương, gắn bó trong tâm hồn mỗi con người. Như nhiều truyện ngắn khác Làng cũng có cốt truyện, câu chuyện xoay quanh hai tình huống truyện độc đáo: Bắt đầu bằng việc ông Hai người làng chợ Dầu, có lòng yêu làng, yêu nước tha thiết, thế nhưng khi chạy giặc lại nghe tin làng mình theo giặc, khiến ông đau đớn và buồn bã, tình huống truyện thứ hai là khi ông Hai nghe tin cải chính, cùng với những thay đổi trong diễn biến tâm trạng. Truyện được kể với giọng văn nhẹ nhàng, bình dị, chân chất, ngôi kể thứ ba giúp người đọc nhìn nhận được vấn đề cốt truyện từ nhiều phía, khiến câu chuyện được khai thác một cách tinh tế và chặt chẽ.
Nhân vật chính của câu chuyện là ông Hai, một người nông dân chăm chỉ, cần mẫn vì chiến tranh nên phải rời khỏi ngôi làng thân yêu, nơi mà ông đã từng sinh sống suốt mấy chục năm trời. Ông yêu và gắn bó với làng tha thiết, điều ấy thể hiện qua nhiều chi tiết của truyện, ví như cảnh ông luôn nhớ về ngôi làng của mình dù lúc mệt mỏi hay khỏe mạnh, và cứ nghĩa về nó là ông lại “thấy mình như trẻ ra”. Ông tự hào về những con đường “lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân” của làng, ông tự hào cả về sinh phần của một vị quan lớn trong làng, nói chung đối với ông Hai tất cả những gì thuộc về là đều đáng quý, đáng trân trọng. Kể cả sau khi đã đi tản cư ông Hai vẫn một lòng hướng về làng, ông đi khoe khắp nơi về làng của mình để vơi bớt nỗi nhớ thương, ông hào hứng kể về làng Chợ Dầu, tự hào về một ngôi làng với “những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối. Những buổi tập quân sự”, tự hào về cả cái phòng thông tin to sáng nhất vùng. Bấy nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy trong lòng ông Hai là cả một tình yêu làng vô bờ bến, cùng với tấm lòng tin tưởng vào cách mạng sâu sắc, thậm chí cái lòng tin lòng yêu ấy đã từng giữ ông ở lại để kề vai sát cánh chiến đấu cùng làng, nhưng cuối cùng ông vẫn phải dứt áo ra đi vì gia đình.
Thế nhưng éo le sao, khi ông Hai một người yêu làng, tin làng tha thiết, trung thành với cách mạng lại phải nghe một cái tin không khác gì sét đánh ngang tai rằng làng Chợ Dầu của ông theo giặc, điều đó thật tàn nhẫn khiến ông Hai vừa đau đớn, xót xa vừa xấu hổ vô cùng. Ngày nào ông cũng mong ngóng tin tức từ làng, nên khi vừa nghe tin giặc tràn vào làng, suy nghĩ đầu tiên nảy ra trong ông là chắc hẳn trận đánh này vang dội lắm, làng ông vốn có truyền thống chống giặc cơ mà, ông đã không thể kìm được mà hỏi ngay: “Thế ta giết được bao nhiêu thằng?”. Thế nhưng thật đớn đau, người đàn bà tản dường như cũng tỏ vẻ khinh khi, đỏng đảnh mà nói câu “Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa.”, thì ông lão dường như chết đứng, ông không thể tin nổi là làng Chợ Dầu của ông lại có ngày đi theo giặc, lại có ngày phản bội cách mạng và phản bội cả cái lòng tin chắc nịch của ông bấy lâu nay. Thật không còn gì đau đớn hơn lúc này, có lấy dao xẻ thịt cũng không xót xa đến thế. Với cái biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc Kim Lân đã thể hiện tâm trạng của ông Hai bằng những chi tiết rất độc đáo mà dường như người đọc cũng thấy thấm thía cái tâm trạng sửng sốt, đau đớn của ông Hai lúc bấy giờ. “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, “Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”, quả thực tin tức này là cú sốc vô cùng to lớn với ông lão, ông không thể tin nổi đó là sự thật. Vì thế ông vẫn giữ chút hy vọng mong manh, cố đấm ăn xôi mà hỏi lại với chất giọng “è è” như kiểu bao nhiêu hơi sức đều dồn lại nơi cổ họng “Liệu có thật không hả bác. Hay chỉ lại…”. Có lẽ ông Hai đã tin đến 80-90% rồi nên giọng ông mới yếu ớt, ngập ngừng và lạc cả đi như thế, ông cũng sợ người đàn bà kia nói một câu nữa thôi thì tất cả những gì ông vẫn nắm chắc bấy lâu nay về làng lập tức thành bọt biển hết. Và câu khẳng định của người đàn bà dường như đã rút hết tất cả sức lực, hy vọng và tình yêu nồng nàn của ông với làng, ông xấu hổ, ông đau khổ và cảm thấy chưa lúc nào lại đắng cay đến độ này. Người đàn ông kiên cường bao năm nay đã đi hết gần nửa đời người ấy đã khóc “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông cứ dàn ra”, nghĩ đến cảnh gia đình bị hắt hủi ông càng thấy đau đớn và tủi nhục hơn gấp trăm ngàn lần. Bởi vì quá yêu nên ông mới bị tổn thương sâu sắc, ông không thể chịu đựng nổi mà “nắm chặt hai tay rít lên: Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để giờ nhục nhã thế này”, câu chửi là tất cả những nỗi niềm tức giận, oán hận và đau khổ của ông Hai. Nỗi đau này của ông, nỗi nhục nhã này của ông chắc chỉ có mình ông hiểu được, nó giày vò làm ông khổ sở, ông không dám bước ra gặp ai, trở nên cáu bẳn, gắt gỏng với cả vợ con, ông trằn trọc không thể nào ngủ yên giấc, rồi trở nên nhạy cảm với tất cả lời bàn tán, sợ hãi việc bị đuổi đi trong nhục nhã,… Tất cả những nỗi lo, những khổ sở cứ giày vò ông lão tội nghiệp, không thể ở lại làng này nữa, hay là về làng Chợ Dầu? Ông Hai đã nghĩ vậy thế nhưng lòng yêu cách mạng, kính trọng cụ Hồ không cho phép ông làm vậy, dù có từng yêu làng đến tận xương tủy ông cũng quyết không quay về cái chốn nhục nhã ấy, bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Ông kiên quyết “làng thì yêu thật. Nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, đến đây vẻ đẹp trong nhân cách của ông Hai được bộc lộ một cách rõ ràng, ông là người rạch ròi biết phân biệt phải trái, tấm lòng trung trinh với cách mạng không đổi dời khiến người ta phải kính nể.
Cuối cùng sau bao nhiêu khổ sở, nhục nhã vì tưởng làng theo Tây thật thì cuối cùng làng cũng được minh oan, hóa ra làng ông không theo giặc, làng ông vẫn trung thành với cách mạng với cụ Hồ, làng Chợ Dầu vẫn là ngôi làng mà ông hằng yêu thương gắn bó tha thiết. Điều ấy khiến cho ông Hai phấn khởi và vui mừng khôn xiết, ông như được hồi sinh “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung đỏ, hấp háy,…”, ông hớn hở chia quà cho các con, lại vội đi báo tin cho bác Thứ, cho ông chủ nhà. Mà ông khoe cái gì, ông khoe “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn!”, chưa từng có ai bị đốt hết nhà cửa mà lại vui và phấn chấn như ông Hai. Bởi đó là minh chứng cho việc làng ông không theo giặc, rằng nhà ông đã hy sinh cho cách mạng và ông cũng không phải là người làng Việt gian, điều đó còn gì sung sướng hơn, hạnh phúc hơn đối với ông Hai vào lúc này nữa? Ông lại tiếp tục tự hào, giọng điệu hùng hồn tuyên bố cho tất cả mọi người cùng biết: “Láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!”, để lấy lại lòng tự trọng, rửa đi nỗi nhục nhã mà ông đã phải chịu đựng suốt những ngày qua. Ông hạnh phúc vì có thể tiếp tục tự hào về ngôi làng yêu dấu, ngôi làng có truyền thống cách mạng, ông tiếp tục đi khoe về ngôi làng của mình, về những chiến tích chống giặc,…
Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã khắc họa rõ nét hình ảnh người nông dân Việt Nam những năm tháng kháng chiến chống Pháp, với vẻ đẹp chân chất, giản dị, tấm lòng yêu làng, yêu quê hương, đất nước tha thiết, sâu nặng, chuyển biến tình cảm trong kháng chiến, cùng với sự đóng góp, hy sinh thầm lặng cho cách mạng của họ, mà như nhà thơ Trần Ninh Hồ đã viết: “Tất cả, tất cả dường như đã được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy”. Bên cạnh nội dung giàu tính nhân văn thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc, văn phong sâu lắng, tỉ mẩn đã góp phần lớn làm nên thành công của tác phẩm.
Phát biểu cảm nghĩ về truyện ngắn Làng
Nhà văn Kim Lân là nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại của nước ta. Ông có một vốn sống vô cùng sâu sắc, gắn bó với làng quê, và người nông dân. Ông thường gắn liền tâm hồn mình với những trò chơi mang cốt cách của người nông dân như: Thả diều, nuôi chim bồ câu, chọi gà, câu cá, chơi hòn non bộ…Dường như Kim Lân hội tụ tất cả những gì thuộc về người nông dân Việt Nam.
Nhà văn Kim Lân không viết nhiều nhưng mỗi tác phẩm của ông đều mang tới cho người đọc một cái nhìn mới mẻ, sâu sắc về hình ảnh người nông dân.
Trong truyện ngắn "Làng" của mình nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh ông hai một ông lão nông dân, có tấm lòng yêu nước yêu làng, hiền lành chất phác. Nhưng khi cách mạng nổ ra ông tuyệt đối trung thành với con đường giải phóng dân tộc mà cụ Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Ông Hai nhân vật chính trong tác phẩm Làng là người nông dân, ngay thẳng sống lương thiện, cần cù. Ông hay làm hay làm lắm ở quê ông suốt ngày không lúc nào ông chịu ngơi tay. Công việc cứ luôn chân luôn tay, nhưng ông vui lắm. Những việc đồng áng của nhà nông như đi cày, đi cuốc, cấy, gặt… việc nào ông Hai làm cũng đều giỏi cả.
Ông Hai được may mắn sống qua hai chế độ, từ thời phong kiến cho tới khi cách mạng thành công lập ra chế độ mới. Trước khi ông hai mù chữ, nhưng từ khi có cách mạng, có cụ Hồ thì người nông dân như ông Hai cũng được tham gia lớp bình dân học vụ, xóa mù chữ…
Ông được đối xử như một người chủ của đất nước này thật sự, được làm chủ đồng ruộng của mình. Cuộc đời ông sang một trang mới được cầm tới quyển vở, cái bút, được học chữ viết…Ông vui lắm, ông biết ơn cách mạng và cụ Hồ Chí Minh nhiều lắm.
Làng của ông hai cái làng Chợ Dầu là nơi mà ông sinh ra và lớn lên, nơi chôn rau cắt rốn của ông. Nhưng do phải đi di tản nên ông đành tạm rời xa làng của mình lên một vùng kinh tế mới làm việc, sinh sống. Nhưng tận sâu trong đáy lòng ông Hai vẫn luôn mong nhớ về quê hương, về làng quê của mình.
Tình yêu đó ăn sâu bám rễ vào tâm hồn ông, nên đi đâu, trong mỗi câu chuyện của mình ông đều nhắc tới làng Chợ Dầu với tình cảm vô cùng thân thiết, trìu mến như làng ông có loa thông tin cao nhất vùng, làng ông được lát gạch đá xanh đi từ đầu làng tới cuối làng vào mùa mưa cũng không bị lấm chân, làng ông có gạo nếp cái thơm ơi là thơm…
Ông Hai yêu làng của mình với tình yêu của một người nông dân hiền lành, chất phác, giản đi trong cách sống và cách suy nghĩ. Nên khi ông yêu, ông nhớ tới làng, thì ông nhắc tới nó, ông khoe nó với tất cả mọi người để thỏa nỗi nhớ mong về làng của mình.
Nhưng rồi một lần ông hai nghe được bản tin sét đánh ngang tai rằng làng của ông, cái làng Chợ Dầu nổi tiếng với nhiều đặc sản, nổi tiếng anh hùng nhưng nay đã đầu hàng giặc, người dân trong làng giờ đều là Việt gian, làm tay sai cho Tây cả… khiến ông Hai đau đớn. Ông cảm thấy cổ họng mình nghẹn cứng, máu trong người như đông cứng lại, không thể nào mở miệng nói được điều gì.
Ông tủi nhục cúi gằm mặt mà bước đi, rồi khi về tới nhà ông nằm vật ra giường như người vừa trúng gió độc, hai hàng nước mắt của ông trào ra, có lúc ông không kìm được mình mà buông ra vài câu chửi thề chua xót.
Những ngày tiếp theo ông Hai sống trong bi kịch triền miên, vợ con gia đình ông phải sống trong nỗi tủi nhục sợ hãi. Những người dân ở vùng kinh tế mới không cho tá túc, họ xa lánh gia đình ông.
Chủ nhà đòi đuổi gia đình ông đi nơi khác, bởi họ không muốn chứa một người có nguồn gốc quê quán làm hán gian, làm tay sai cho giặc. Ông Hai đau đớn lắm. Ông yêu làng thật, yêu rất nhiều, tự hào rất nhiều, "Lần thì yêu thật, nhưng làng mà theo Tây thì phải thù…"
Rồi có lúc ông uất hận kêu lên rằng " Không biết những người làng, ăn gì mà ngu vậy để cho ông phải mang nhục nhã như thế này". Trong lúc túng quẫn, không có chỗ nào để đi, cũng có lúc ông nghĩ tới phương án về lại làng quê xưa, về lại nơi chôn rau cắt rốn.
Nhưng rồi ông lại gạt phắt đi. Bởi làng đã theo Tây rồi, người trong làng giờ đều làm hán gian, làm tay sai cho giặc về đó để làm hán gian, phản bội đất nước thì ông không đời nào về. Dù ở đây, mọi người không ông tá túc, không cho ông sinh sống đuổi ông đi, thì ông cũng không đời nào về làng để làm Việt gian.
Thông qua nhân vật ông Hai tác giả Kim Lân đã khắc họa lên hình ảnh người nông dân chân chính, khi đã giác ngộ cách mạng thì không có điều gì có thể lay chuyển được họ. Những người nông dân dù ít học, không hiểu biết nhiều nhưng một khi họ đã được cảm hóa thì tinh thần yêu nước, đấu tranh căm thù giặc của họ còn cao hơn bất kỳ một người tri thức nào.
Họ đã đặt tình yêu đất nước, yêu tổ quốc lên trên tình yêu làng, tình yêu với nơi mình sinh ra và lớn lên. Đó chính là bài học sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi tới chúng ta.
Rồi một ngày làng Chợ Dầu của ông được minh oan, lãnh đạo làng Chợ Dầu lên tận vùng kinh tế mới để nói cho mọi người yên tâm, rằng làng ông vẫn theo cách mạng, vẫn theo cụ Hồ Chí Minh, làng của ông vừa giành thắng lợi lớn trong cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược, khiến cho ông Hai vui lắm, hãnh diện lắm.
Ông như trút bỏ được gánh nặng bấy lâu nay, ông vui mừng như đứa trẻ bị đòn oan nhưng nay lại được quà. Ông vui mừng đi khoe với tất cả mọi người rằng những thông tin kia chỉ là láo toét hết, là giả dối hết.
Người đọc như cảm thấy được niềm vui, sự xúc động của ông Hai khi tin làng ông theo Tây được cải chính. Thông qua tác phẩm của mình nhà văn Kim Lân muốn gửi tới tất cả người đọc tình yêu quê hương đất nước của những người nông dân lao động Việt Nam.
Cảm nghĩ của em về tác phẩm Làng
Kim Lân được biết đến từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 với những truyện ngắn đặc sắc về những thú chơi dân dã tài hoa của người dân quê xứ Kinh Bắc: chọi gà, thả chim, đấu vật… Cả đời cầm bút của mình, nhà văn tài năng này chỉ viết rất ít và cũng hầu như chỉ viết về người dân quê ông vùng Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, một vùng quê nổi tiếng, vừa trù phú tươi đẹp, vừa giàu truyền thống văn hóa.
Lần này, với truyện ngắn Làng, Kim Lân lại thành công trong việc thể hiện hình ảnh người nông dân, nhưng là người nông dân của thời đại cách mạng và kháng chiến mà tình yêu làng quê đã hòa nhập trong lòng yêu nước và tinh thần của người dân kháng chiến. Truyện Làng được viết và in năm 1948 trên tạp chí Văn nghệ mới ra mắt số đầu tiên ở chiến khu Việt Bắc và nhanh chóng được khẳng định là một trong só không nhiều truyện ngắn thành công sớm nhất của văn học thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954).
Cái làng đối với người nông dân – đặc biệt là vùng đồng bằng miền Bắc có một vị trí và ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của họ. Nó gắn bó thân thiết với họ hàng ngày và suốt cuộc đời, cả đến khi đã từ giã cõi đời. Vì thế, từ bao nhiêu đời nay, lòng yêu làng quê đã trở thành một tình cảm sâu nặng và tự nhiên, hơn thế nữa đã thấm sâu vào tâm thức, tâm linh của người dân quê. Đã có bao nhiêu câu ca dao đẹp nói về tình yêu quê hương và niềm tự hào về cảnh đẹp và sự trù phú của những làng quê ở mọi miền đất nước. Thậm chí có khi tình cảm ấy đã bị đẩy tới sự thiên vị và trở thành một thứ tâm lí “bản vị” hẹp hòi: “Ta về ta tắm ao ta, Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Tình yêu làng ở ông lão Hai – nhân vật chính của truyện – vừa rất chung, rất tiêu biểu cho nét tình cảm và tâm lí này của mọi người dân quê, lại vừa rất riêng, rất độc đáo. Đó là cái tính khoe làng từ xưa đến nay ở ông. Với ông Hai, cái làng Chợ Dầu của ông thật không đâu bằng và cái gì cũng đáng tự hào: “Ông khoe làng ông nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh. Nhưng sự khoe làng ở ông cũng có thay đổi theo thời cuộc. Hồi trước Cách mạng “mỗi bận đi đâu xa, khoe làng ông chỉ khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông. Ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm”. Còn bây giờ thì “ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”, ông còn khoe “những ngày khởi nghĩa rồn rập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn bóng tối”. Rồi ông khoe “những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì lắm công trình không để đâu hết”.
Có thấy được tình yêu làng đến thành một niềm say mê của ông Hai thì mới hiểu được tâm trạng của ông trong hoàn cảnh phải rời làng đi tản cư. Chiến tranh lan đến vùng quê ông, chính quyền vận động các gia đình đưa người già, phụ nữ và trẻ em đi tản cư. Thực tình ông Hai không muốn đi tản cư một tí nào. Vợ con đã đi cả, ông vẫn ở lại với một số anh em thanh niên dân quân đến nỗi bà Hai đã phải năm bảy lần nhắn về thúc giục ông lên mà ông vẫn còn nấn ná ở lại. Ông nghĩ: “Mình sinh sống ở cái làng này từ tấm bé đến giờ. Ông cha cụ kị mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã từ bao nhiêu đời nay rồi. Bây giờ gặp phải cái lúc hữu sự như thế này mình lại đâm đầu bỏ đi còn ra thế nào nữa”. Đó quả thật là suy nghĩ và thái độ của một người nông dân gắn bó tha thiết với cái làng của mình, đồng thời cũng là của một người công dân yêu nước.
Kim Lân đã thấu hiểu và diễn tả thật sinh động và cảm động nét tâm lí này ở người nông dân mà hiếm thấy một cây bút nào đạt được như vậy, mặc dù đã có không ít tác phẩm viết về sự gắn bó với đất đai và làng quê của người nông dân Việt Nam.
“Làng” là một truyện ngắn có cốt truyện rất đơn giản, tập trung vào diễn tả tâm trạng của nhân vật chính – ông Hai, hay có thể nói đây là một kiểu cốt truyện tâm lí. Ngay từ những dòng đầu truyện đã mở ra với tâm trạng của ông Hai ở nơi tản cư: “Tối nào cũng vậy, cứ đến lúc nhà lên đèn và bà Hai ngồi lầm rầm tính toán những tiền cua, tiền bún, tiền kẹo… Thì một tâm trạng buồn bực lại dậy lên trong lòng ông Hai khiến ông phải vùng dậy sang bên bác Thứ nói chuyện. Cái việc ông Hai cứ tối tối lại tìm sang bác hàng xóm cũng là người tản cư dể nói chuyện chính là một cách để giải tỏa những nỗi buồn bực, nghĩ ngợi vẩn vơ và nhất là để thổ lộ nỗi nhớ da diết cái làng của ông. Bởi vậy, trong cuộc trò chuyện chỉ có ông Hai nói và bác Thứ ngồi nghe. Mà thực ra thì ông Hai cũng chẳng để ý lắm đến việc người cùng trò chuyện có nghe ông nói hay không, ông chỉ cốt nói để trút với tâm trạng và nhất là cho đỡ nhớ cái làng của mình. Ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động”.
Ngòi bút miêu tả tâm lí của Kim Lân càng tỏ ra sâu sắc khi đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống thử thách để làm bộc lộ chiều sâu tâm trạng của nhân vật, đó là tình huống ông Hai đột ngột nghe tin dữ: Làng Chợ Dầu của ông theo giặc lập tề.
Cái tin ấy đến với ông vào một buổi trưa giữa lúc tâm trạng ông đang rất phấn chân vì nghe được nhiều tin ta đánh thắng giặc trên tờ báo ở phòng thông tin. Cái tin ấy đến với ông quá đột ngột, khiến ông sững sờ đến nỗi “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông đã cố gặng hỏi để hy vọng cái tin ấy là không đúng sự thật. Nhưng những người đưa tin lại kể rành rọt quá và khẳng định họ vừa từ dưới ấy lên, nên ông không thể nào nghi ngờ gì nữạ. Từ lúc ấy ông Hai rơi vào một tâm trạng đau đớn, tủi hổ ngày càng nặng nề. Trước càng tự hào, hãnh diện bao nhiêu về cái làng của mình thì nay ông Hai lại càng đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Suốt ngày ông không bước ra đến ngõ. ông chỉ quanh quẩn trong gian nhà chật hẹp, lắng tai nghe ngóng động tĩnh bên ngoài: “Một đám đông túm lại ông cũng đề ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang bàn tán đến cái chuyện ấy. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông, là ông lùi ra một góc nhà nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”. Tác giả đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc cái tâm trạng nặng nề đến thành một tâm trạng sợ sệt luôn ám ảnh trong tâm trí ông Hai.
Cảm nghĩ về truyện ngắn Làng
Kim Lân là nhà văn hiện đại Việt Nam. Ông có một vốn sống vô cùng sâu sắc về nông thôn Việt Nam. Những thú chơi dân dã mang cốt cách "phong lưu đồng ruộng" như thả diều, chọi gà, nuôi chó, thả chim bồ câu, chơi núi non bộ, gánh hát chèo, trẩy hội mùa xuân,... được ông viết rất hay và cho ta nhiều thú vị. Ông là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc mang hương đồng gió nội qua hai tác phẩm: Con chó xấu xí và Nên vợ nên chồng.
Viết về đề tài nông dân và kháng chiến, truyện Làng của Kim Lân thành công hơn cả. Nhân vật chính của truyện là ông Hai đã để lại trong lòng chúng ta nhiều ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ.
Ông Hai là một lão nông cần cù, chất phác, giàu lòng yêu quê hương đất nước. Ông gắn bó với cách mạng, quyết tâm đi theo kháng chiến, trung thành tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của cụ Hồ Chí Minh.
Cũng như hàng triệu người nông dân khác, ông Hai là một con người cần cù chất phác rất đáng yêu. Ông hay làm "ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay". Đi cày, đi cuốc, gánh phân, tát nước, đan rổ, đan rá,... ông đều làm khéo, làm giỏi.
Ông Hai đã sống qua hai chế độ, trước kia ông mù chữ, sau nhờ cách mạng mà ông được học "Bình dân học vụ", biết đánh vần. Kim Lân đã kể rất hay về tình yêu làng của ông Hai. "Làng ta phong cảnh hữu tình"... không yêu làng sao được. Cái làng Chợ Dầu vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của ông, " nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh " "đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân "...Trước kia, ông Hai rất lấy làm tự hào về cái sinh phần quan tổng đốc làng ông. Đi đâu ông cũng khoe, gặp ai ông cũng khoe "cái dinh cơ cụ thượng làng tôi có lắm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy.".. Ông yêu làng Chợ Dầu với tất cả sự hồn nhiên, ngây thơ của người ít học. Ông đã mang thương tật trên mình khi bị bắt làm phu xây cái làng ấy! Đáng lẽ ông không nên khoe, không nên "hả hê cả lòng". Nỗi đau, nỗi nhục của một đời người nói làm gì nữa cho thêm phần nhục nhã? Nhắc lại chuyện xưa, cũ ấy của ông Hai, Kim Lân đã viết với một giọng văn châm biếm nhẹ nhàng. Từ ngày cách mạng thành công, ông Hai vẫn yêu làng, yêu với tất cả tình cảm trong sáng, chân thành. Ông đã có nhiều thay đổi về mặt nhận thức. Ông không bao giờ còn "đả động" đến "cái sinh phần" ấy nữa, ông biết "thù nó" đến tận tim gan. Ông yêu cái làng Chợ Dầu kháng chiến với tất cả niềm kiêu hãnh cao cả! Cái làng Chợ Dầu của ông "có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy". Ông khoe làng mình "những ngày khởi nghĩa rầm rập", các cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vác gậy đi tập quân sự, "nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì lắm công trình không để đâu hết". Có thể nói, từ ngày đi tản cư, phải xa làng thân yêu, bao nỗi buồn vui của quá khứ và hiện tại chứa chất trong lòng ông bao tâm sự. Dưới ngòi bút của Kim Lân, ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước, hiền lành, chất phác... hiện lên một cách chân thực, ta thấy gần gũi, bình dị và đáng yêu lắm. Tình yêu làng, tình yêu quê hương là một trong những tình cảm sâu sắc nhất của người dân cày Việt Nam.
Quyết tâm kháng chiến, tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch cũng là một nét rất đẹp trong tư tưởng, tình cảm của ông Hai. Kháng chiến thì khắp nơi "Ruộng rẫy là chiến trường. Cuốc cày là vũ khí. Nhà nông là chiến sĩ!". Vợ con đi tản cư, nhưng ông Hai vẫn ở lại cùng với đội du kích "đi đào đường đắp ụ"để bảo vệ cái làng Chợ Dầu thân yêu. Khi hoàn cảnh gia đình neo bấn, vợ con thúc bách, cực chẳng đã phải xa quê hương, ông tự an ủi mình: "Thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được thì tản cư âu cũng là kháng chiến!"
Xa làng rồi nhớ làng, tính nết ông Hai có phần thay đổi. Ông ít nói ít cười, lầm lầm lì lì, thậm chí cáu gắt, chửi bới vợ con. Ông vô cùng đau khổ: "Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ! Ông thì giết hết, ông thì giết hết!". Chúng ta cảm thông với "tâm sự" u uất của ông, thương ông lắm!
Trong lúc ông Hai đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương dũng cảm anh hùng của quân và dân ta thì ông như bị sét đánh vì cái tin "dữ" cả làng Chợ Dầu "Việt gian theo Tây"..., "vác cờ thần ra hoan hô" lũ giặc cướp! Ông tủi nhục cúi gằm mặt mà đi, nằm vật ra giường như bị ốm nặng, nước mắt cứ tràn ra, có lúc ông chửi thể một cách chua chát! Ông sống trong bi kịch triền miên. Vợ con vừa buồn vừa sợ. "Gian nhà lặng đi, hiu hắt". Ông sợ mụ chủ nhà... có lúc ông nghĩ quẩn "hay là quay về làng"... nhưng rồi ông lại kiên quyết: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!". Kim Lân rất sâu sắc và tinh tế miêu tả những biến thái vui, buồn, lo, sợ... của người nông dân vể cái làng quê của mình. Họ đã yêu làng trong tình yêu nước, đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng. Đó là một bài học vô cùng quý giá và sâu sắc của ông Hai đem đến cho mỗi chúng ta!
Cuộc đối thoại giữa hai bố con ông Hai là một tình tiết cảm động và thú vị:
- "À. Thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?"
- "Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!"
Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt ông chảy ròng ròng trên hai má... Lòng trung thành của cha con ông, của hàng triệu nông dân Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc, kiên định. Vẻ đẹp tâm hồn ấy của họ rất đáng tự hào, ca ngợi.
Vì thế, khi cái tin thất thiệt "cả cái làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây" được cải chính thì ông Hai là người sung sướng nhất. Ông "tươi vui, rạng rỡ hẳn lên", "mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ"... Ông mua quà cho con. Ông chạy sang nhà bác Thứ để "khoe" cái tin làng Chợ Dầu đánh giặc, nhà ông bị Tây đốt. Tự hào lắm chứ! Người đọc như được san sẻ niềm vui sướng cùng ông.
Gấp trang sách lại, chúng ta bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn, hồi hộp của nhà văn Kim Lân. Những phẩm chất tốt đẹp của ông Hai như cần cù lao động, chất phác, yêu quê hương đất nước... tiêu biểu cho bản chất cao quý, trong sáng của người dân cày Việt Nam. Chính họ đã đổ mồ hôi làm nên những bát cơm đầy dẻo thơm nuôi sống mọi người. Chính họ đã đem xương máu, đánh giặc "giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín"... (Thép Mới).
"Quê hương là chùm khế ngọt... " là niềm vui, nỗi buồn, là ước mơ đẹp của mỗi chúng ta. Quê hương đang đổi mới, "ngói hóa", no ấm, giàu có trong thanh bình
Bài học sâu sắc nhất khi đọc truyện ngắn này của Kim Lân là tình yêu quê hương đất nước, là lòng tự hào và biết ơn người dân cày Việt Nam.
Truyện ngắn Làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì?
Kim Lân là nhà văn rất am hiểu cuộc sống của người nông dân ở nông thôn miền Bắc. Tất cả các truyện của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Truyện Làng được Kim Lân sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp chí văn nghệ năm 1948. Nhân vật chính của truyện là hình ảnh tiêu biểu và chân thực của người nông dân trong mới ngày đầu tiếp xúc với cách mạng, với lòng yêu làng, yêu nước sâu sắc, với sự hồ hởi say mê, tin yêu, chung thuỷ với kháng chiến, với Bác Hồ.
Ông Hai nhân vật chính trong truyện là một người yêu làng, yêu nước tình yêu làng của ông có những nét đặc sắc, riêng biệt được thể hiện thành một đức tính đáng quý.
Là một nông dân suốt cuộc đời sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với từng con đường, từng nếp nhà, thửa ruộng, từng ngọn cỏ, cành cây và biết bao người ruột thịt, xóm giềng, họ hàng gần xa, vậy mà giờ đây vì giặc ngoại xâm, ông 2 phải xa rời quê hương đi tản cư, sống nhờ nơi đất khách quê người. Do đó lòng ông đau đáu nhớ quê. Ban ngày lo bận việc sản xuất, ổn định cuộc sống, chiều rồi buổi tối ông hai lại sang hàng xóm giãi bày nỗi nhớ của mình. Trong câu chuyện, ông không ngớt lời khoe những cái đẹp, điều hay ở quê hương mình. Làng chợ Dầu quê ông đẹp lắm, đường là phong cảnh sạch sẽ, cái cổng làng rộng như cổng thành... Ông khoe cả cái "sinh phần" - lăng mộ - của viên tổng đốc người làng, mặc dầu đó là một chứng tích đau khổ của dân làng, trong đó có ông. Đặc biệt là ông hai khoái nhất khoe và kể nhiều nhất là những ngày đầu cách mạng tháng 8. Quê hương được giải phóng, thoát khỏi ách cường hào phong kiến và lũ tay sai thực dân. Dân làng ông bắt đầu cuộc sống mới. Đêm đêm rậm rịch tiếng bước chân của đoàn du kích tập quân sự, sáng, chiều râm ran tiếng trẻ em học bài... lại cả những tiếng hát của thanh niên ngân vang trong những buổi cả làng bàn việc nước, việc dân... nghe những chuyện ấy, mọi người đều thông cảm với lòng nhớ quê da diết của ông. Không chỉ nhớ mà ông còn luôn tự hào, cho rằng làng chợ Dầu của ông đẹp nhất nhì thiên hạ. Đó là một người yêu quê hương tha thiết bằng một tình cảm tự nhiên, hồn nhiên. Tình cảm đó bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống hằng ngày, từ những sự vật, con người gắn bó hàng ngày ... Tình cảm đó thuần phác và trong sáng biết bao.
Khi nghe tin làng chợ dầu theo Tây ông Hai "cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân". Trước hết là sự xót xa của ông về làng mình, sự phản bội của nơi chôn rau cắt rốn của mình. Ông lão tủi hổ, bàng hoàng trước sự việc đó. Tình yêu làng vẫn thắm thiết trong ông, làng chợ Dầu vẫn là nơi ông gửi gắm sinh mệnh, danh dự và niềm hãnh diện, tự hào. Vậy mà bây giờ... ông lão nghĩ tới việc trở về làng. Song ý nghĩ đó ông gạt phắt đi. Trong sự tuyệt vọng, đau khổ này, lối thoát về làng chợ Dầu loé lên như một tia hi vọng rồi lại tắt ngấm. Từ lâu ông yêu làng ông, mong được trở về với làng ông song trong ông tình yêu nước mạnh hơn, thiêng liêng hơn: không vì làng mà bỏ nước, bỏ kháng chiến. Giữa sự giằng co trong tâm hồn, ông Hai đã thốt lên đầy đau đớn song đầy quyết tâm: "Làng thì yêu thật đấy, nhưng làng theo Tây thì phải thù. Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông, cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì bao giờ dám đơn sai. Khi ông tâm sự với con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu "nhà ta ở làng chợ Dầu". Đồng thời ông nhắc con - cũng là tự nhắc mình "Ủng hộ Hồ Chí Minh". Tình quê và lòng yêu nước của những người nông dân ấy rất sâu nặng và thiêng liêng biết bao. Ông Hai đã trải qua những buồn vui, đau khổ, những tự hào, chua chát, những nguyện vọng và hi vọng... hài hoà, gắn bó giữa quê hương và tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiến gian khổ ấy thì cách mạng đã đổi đời cho những người nhân dân như ông, ông nguyện đi theo và trung thành với cách mạng. Gạt sang một bên tình cảm riêng của mình mà đi theo kháng chiến, không chịu theo Tây, sống với Tây. Tình cảm gắn bó với cách mạng với Bác Hồ của những người nông dân như ông nó chất phác, mộc mạc, sâu sắc, nó xuất phát từ đáy lòng, máu thịt.
Thấy được tình yêu làng, yêu nước của ông Hai, ta hiểu và cũng mừng cho sự hớn hở của ông Hai khi nghe tin làng mình theo Tây được cải chính. Tình yêu làng, tình yêu nước lại trở về gắn bó với nhau ngày càng sâu sắc, thắm thiết hơn trong lòng người nông dân chân chất này. Từ ngày ông Hai không phải dằn vặt trong sự lựa chọn khắc nghiệt giữa làng và nước, cái vui của ông Hai là cái vui của một con người yêu quê hương, đất nước sâu sắc. Niềm vui khiến ông lão như trẻ con "lật đật, bô bô" kể về làng mình bị đốt nhẵn. Nhà của ông bị cháy rụi mà ông không để í, không đau buồn, ông chỉ biết rằng lúc này ông làm kháng chiến và ông lão bây giờ có thể tự hào, hãnh diện ngồi kể về cái làng chợ Dầu kháng chiến của mình.
Vốn là những con người chân thực, chất phác, những ngày đầu tiếp xúc với cách mạng họ vẫn có sự bỡ ngỡ và lạ lẫm ban đầu. Cảm giác ấy nhanh chóng tan đi, người ông dân đón nhận cách mạng với một tình cảm chân thành một lòng hăm hở. Cuộc đời nông dân Việt Nam rẽ sang một bước ngoặt mới tươi sáng hơn. Họ nô nức, háo hức hoà chung vào phong trào cách mạng cả nước, họ hăng hái cầm súng bảo vệ quê hương. Cách mạng trở thành một phần máu thịt của người nông dân, có những người như ông hai day dứt, tủi hổ, khổ sợ khi mình bị hiểu lầm là không trung thành với cách mạng song vẫn không bỏ cách mạng. Đó là lòng trung thành, là tình cảm sâu sắc, bền chặt mà người nông dân dành cho cách mạng. Cách mạng Tháng Tám đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh trong lòng họ. Người nông dân đứng lên kiên quyết giữ làng, giữ nước, đâu còn là hình ảnh con người khổ nhục, khiếp sợ từ tên đầy tớ nhà giàu. Họ - những người như ông Hai đứng lên đào hào, đắp luỹ trực tiếp chống lại quân thù. Lòng yêu nước nồng nàn, sự trung thành với cách mạng tất cả trở thành sức mạnh khiến họ đứng lên bảo vệ quê hương, bảo vệ chính mình. Cách mạng mang đến cho họ cuộc đời mới, họ phải bảo vệ lấy hạnh phúc đó của mình.
Vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai làng Chợ Dầu tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam tuy trình độ văn hoá thấp nhưng đã có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Nói cách khác, quê hương - Tổ quốc đối với mỗi người Việt Nam chúng ta luôn gắn bó trong niềm tự hào nồng thắm! Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống pháp đã trú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý ấy!
Viết đoạn văn trình bày cảm nhận về truyện ngắn Làng
Làng của nhà văn Kim Lân dù chỉ là một đoạn trích trong truyện ngắn nhưng cũng đủ để lại nhiều dư vị về tình cảm quê hương và đất nước. Ông Hai là người sống từ lâu ở làng Chợ Dầu nhưng vì hoàn cảnh bắt buộc ông phải sống xa làng trong nỗi nhớ khôn nguôi. Ông rất yêu nơi mình sinh ra và lớn lên và đi đâu cũng khoe với mọi người. Tình cảm của ông thể hiện rất rõ khi nghe tin sét đánh cả làng theo Tây, lúc này tác giả tập trung miêu tả cảm giác của ông đó là “cổ nghẹn đắng”, “da mặt tê rân rân”, như cố trấn tĩnh nhưng đó là sự thật khiến ông rất thất vọng và buồn bã. Suy nghĩ khi nghe tin làng theo giặc, trong ông luôn có tâm trạng cùng sự đấu tranh nội tâm trở nên xung đột, đây là tình huống mà tác giả tập trung miêu tả hình ảnh ông Hai với tấm lòng yêu làng, yêu nước tha thiết và chân thành. Ông thấy xấu hổ vì niềm tin mà mình đã dành cho làng bấy lâu nay đã thực sự sụp đổ trong phút chót. Nhưng rồi ông cực kỳ vui sướng khi nghe tin làng chợ Dầu vẫn theo Kháng chiến, vẫn đang chống Tây, ông không còn nỗi tủi nhục không còn buồn mà lại vui vẻ khỏe làng của mình người khác. Cuộc sống phải bỏ làng ra đi ai buồn nhưng ta lại thấy hình ảnh ông Hai đi khoe cái tin đó là “Tây nó đốt hết nhà tôi rồi, hết hẳn”, ông vui và tự hào bởi việc Tây đốt nhà giúp cho mọi người hiểu rằng làng chợ Dầu vẫn theo kháng chiến, vẫn yêu nước, đó là niềm vui thực sự. Làng trong ông Hai là một phần ruột thịt, nhà cửa hay tài sản mất đi có thể lấy lại, miễn sao cống hiến cho đất nước vững mạnh đó là niềm vui lớn lao nhất. Tình yêu làng yêu quê hương đất nước trong ông Hai thật giản dị, chân thành, tác giả tập trung miêu tả tâm lí cùng ngôn ngữ nhân vật để làm nổi bật tình cảm của ông Hai với làng, với quê hương.
Gợi ý liên hệ, mở rộng dành cho truyện ngắn Làng
Nhận định liên quan đến tác giả, tác phẩm
- Kim Lân khi nói về tác phẩm: “Truyện ngắn này không phải viết về đời sống nơi tản cư mà viết về tình cảm của con người với làng xóm, quê hương. Truyện viết về chính những người dân làng tôi. Hồi ấy gia đình tôi cũng đi sơ tán, trên khu ở mới, có tin đồn làng tôi là làng Việt gian. Mọi người đều nhìn những người dân làng với con mắt chế giễu, khinh thường. Tôi yêu ngôi làng của tôi và không tin dân làng tôi có thể đi theo giặc Pháp. Tôi viết truyện ngắn Làng như thể để khẳng định niềm tin của mình và minh oan cho làng tôi.”
- Nguyên Hồng đã nói: “Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn.
- Nhà văn Kim lân từng nói: “…Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai”
So sánh với tác phẩm khác của Kim Lân
So sánh hình tượng người nông dân trong truyện ngắn Làng và truyện ngắn Vợ nhặt: Cùng viết về hình ảnh người nông dân ngụ cư, nếu như “Vợ nhặt” đưa đến hình ảnh con người trong thảm họa nạn đói năm Ất Dậu với những phẩm chất tốt đẹp như yêu thương, nhận hậu, hi sinh và sự thấu hiểu của những con người cùng chung cảnh ngộ thì tác phẩm “Làng” lại đưa đến hình ảnh người nông dân giàu tinh thần kháng chiến. Ấy là nhân vật ông Hai có một trái tim ấm nóng tình yêu thương mãnh liệt với làng, với quê hương đất nước. Suy cho cùng, hai tác phẩm đều hướng đến cội nguồn nhân văn, nhân bản được lưu giữ bất diệt trong tâm hồn con người.
So sánh với các sáng tác có chung đề tài, tư tưởng
- Làng và Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài): Với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã mang đến hình ảnh nhân vật Mị và A Phủ có sự chuyển biến nhờ ánh sáng của Đảng. Với Kim Lân, sự chuyển biến tâm lí của nhân vật ông Hai cũng vốn xuất phát từ sự tinh thần yêu nước và trung thành tuyệt đối với Đảng, với đất nước.
- Làng và Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành): Đều nói về tinh thần yêu nước, sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng, trước sau như một.
- Làng và Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng): Ở Kim Lân và Nguyễn Huy Tưởng có sự gặp gỡ về việc thể hiện tình cảm, sự gắn bó, yêu thương của con người đối với quê hương. Với tác phẩm “Làng” là tình yêu, niềm tin về làng của ông Hai còn “Sống mãi với thủ đô” là người dân Hà Nội một lòng bảo vệ thủ đô trước mũi giáo của kẻ thù.
- Lượt tải: 271
- Lượt xem: 141.344
- Dung lượng: 475,7 KB
Link Download chính thức:
Các phiên bản khác và liên quan:
- Nhu Phuong NguyenThích · Phản hồi · 0 · 22:07 03/11