Nghị luận bài Câu cá mùa thu (Dàn ý + 3 Mẫu) Thu điếu của Nguyễn Khuyến
Nghị luận bài Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến mang đến gợi ý cách viết kèm theo 3 bài văn mẫu khác nhau cực hay. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều nguồn tài liệu hữu ích, biết cách sử dụng từ ngữ để biết cách viết bài văn hay.
TOP 3 bài nghị luận Thu điếu dưới đây được viết rất rõ ràng dễ hiểu gồm cả bài ngắn gọn và đầy đủ. Hi vọng đây là nguồn tài liệu học tập hữu ích đối với các bạn học sinh. Bên cạnh đó để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm bài văn mẫu: phân tích cảnh thu và tình thu trong bài thơ Câu cá mùa thu, phân tích Câu cá mùa thu.
Nghị luận Câu cá mùa thu hay nhất
Dàn ý nghị luận câu cá mùa thu
1. Mở bài
– Giới thiệu vấn đề: Vẻ đẹp cô đơn của cảnh vật, con người trong bài thơ Câu cá mùa thu
– Trích đề.
2. Thân bài:
- Vẻ đẹp của cảnh vật mùa thu trong Thu điếu
- Mùa thu gợi ra với hai hình ảnh vừa đối lập vừa cân đối hài hoà “ao thu”, “chiếc thuyền câu” bé tẻo teo; ⇒ bộc lộ rung cảm của tâm hồn thi sĩ trước cảnh đẹp mùa thu và của tiết trời mùa thu, gợi cảm giác yên tĩnh lạ thường.
- Tiếp tục nét vẽ về mùa thu giàu hình ảnh, đan xen là những chuyển động nhẹ nhàng ⇒ Nét đặc sắc rất riêng của mùa thu làng quê được gợi lên từ những hình ảnh bình dị, đó chính là “cái hồn dân dã”.
- Cảnh thu đẹp một vẻ bình dị nhưng tĩnh lặng và đượm buồn ⇒ Không gian của mùa thu làng cảnh Việt Nam được mở rộng lên cao rồi lại hướng trực tiếp vào chiều sâu, không gian tĩnh lặng và thanh vắng
- So sánh điểm giống và điểm khác khi tác giả sử dụng các hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ với các tác phẩm khác, các nhà thơ khác.
- Vẻ đẹp của cô đơn của con người giữa mùa thu trong bài Câu cá mùa thu
- Xuất hiện hình ảnh con người câu cá trong không gian thu tĩnh lặng với tư thế “Tựa gối buông cần”;
⇒ Nói câu cá nhưng thực ra không phải bàn chuyện câu cá, sự tĩnh lặng của cảnh vật cho cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ, đó là tâm sự đầy đau buồn trước tình cảnh đất nước đầy đau thương
3. Kết luận
- Đánh giá ý nghĩa của vấn đề.
-Rút ra bài học cho bản thân.
Nghị luận văn học bài Thu điếu - Mẫu 1
Mùa thu đã thú vị. Mùa thu ngồi câu cá lại càng thú bị hơn. Huống chi, mùa thu lại được ngồi câu cá giữa vùng phong cảnh quen thuộc của quê hương. Niềm thú vị ấy đã trở thành cảm hứng cho một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến, bài Thu điếu.
Thu điếu là một trong chùm ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến rất nổi tiếng xưa nay. Tuy nhan đề là "Mùa thu câu cá" nhưng bài thơ không lấy việc câu cá làm chính mà lấy mùa thu làm chính. Việc câu cá chẳng qua là cái cớ, cái hoàn cảnh, cái chỗ để nói về mùa thu, để thưởng thức mùa thu mà thôi. Mùa thu, nhất là mùa thu ở làng quê, vốn đẹp, nhưng mùa thu, cảnh thu ngắm từ vị trí người câu cá, thưởng thức từ tâm trạng người ngồi câu cá, lại có cái đẹp, cái thú riêng. Cho nên cái khác nhau, cái phong phú riêng của Thu điếu so với Thu ẩm hay Thu vịnh chính là từ đó.
Mở đầu theo thông lệ của thơ Đường, Nguyễn Khuyến giới thiệu và hạn định khái quát nơi phát sinh cảm hứng với câu phá đề:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Nơi ấy là "ao thu" . Địa điểm là: ao; thời gian; thu; thời gian không phải một ngày, một buổi nào, mà là cả một mùa: mùa thu. Hai từ "ao" và "thu" không tách rời nhau mà kết thành một ngữ " ao thu", một thứ ao riêng, chỉ đến mùa thu mới xuất hiện, hoặc chỉ đến mùa thu mới có những nét ấy, những vẻ ấy, những tính chất ấy. Trong cảm xúc ban đầu của Nguyễn Khuyến, ao thu được phát hiện nhờ hai tính chất: "lạnh lẽo" và "nước trong veo". Đó là cảm nhận bỗng khiến cho lòng nhà thơ tràn trề cảm hứng.
Nhưng "lạnh lẽo" đâu phải là tính chất riêng của "ao thu"; sang đông ao còn lạnh lẽo hơn kia mà! Có thể như vậy thật, nhưng ở đây không phải là chuyện lạnh hay không lạnh, lạnh nhiều hay lạnh ít. Ở đây là chuyện cảm xúc. Sau một mùa hạ nóng nực kéo dài, cái lạnh lẽo của mùa thu thật đáng để cảm xúc hơn là một cái lạnh này sang một cái lạnh khác, dẫu có lạnh hơn. Vả lại, ngoài cái lạnh, ao thu còn có "nước trong veo". Ao lạnh, nước yên, nước trong đến tận đáy. Trong đến độ "trong veo", tức là đạt đến độ cao nhất của sự trong, từ "veo" với vần "eo" tiếp sau từ "trong" gợi lên một lời cảm thán, một niềm thích thú, một tiếng reo nhỏ kéo dài. Trời phải lặng gió, bầu trời cũng phải thật trong, nước mới có thể "trong veo" như thế. Câu thơ đầu, dẫu chưa tả trời, cũng đã cho ta thấy trời. Trước mắt ta, một khoảng không gian trong sáng và tĩnh lặng vô cùng.
Mở ra với từ "ao", bài thơ của Nguyễn Khuyến thật đã bắt đầu không theo sách vở chút nào. Lẽ ra không phải là ao, mà là hồ như Tây Hồ, Động Đình hồ... hoặc bến như bến Tân Hoài, bến Cô Tô, bến Phong Kiều... hoặc sông như sông Hoàng Hà, sông Dương Tử... chẳng hạn. Các nhà thơ xưa, trước kia cũng thời Nguyễn Khuyến vẫn làm thế mà!. Có làm như thế mới là nhà thơ cổ, nhà thơ có học, nhà thơ cao khiết. Nhưng không, Nguyễn Khuyến đã chọn cái ao làm chỗ xuất phát cho cảm hứng. Ao là một nét thường gặp ở vùng quê nhà thơ, vùng quê Việt Nam. Nói đến ao là động đến một cái gì rất thân quen, rất thân mật, rất bình dị trong cuộc sống dân tộc. Nguyễn Khuyến đã chọn nó, chọn cái ao, vì sao? Vì tâm hồn ông là thế, thân mật, trân thành, bình dị, gắn bó với dân tộc.
Thế là với một câu thơ, Nguyễn Khuyến đã đóng khung cảm xúc của mình với một bức tranh mùa thu trong Thu điếu là phong cảnh Việt Nam giản dị mà gợi cảm biết bao:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo.
Trên cái nền ấy là hình ảnh người câu cá:
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Người ngồi câu cá không ngồi xuống đất, bên bờ ao như thói thường những người đi câu cá ao, nhất là những người câu cá "nghiệp dư", mà ngồi trên "một chiếc thuyền câu". Ngồi trên thuyền, trong trường hợp này, có lợi thế hơn. Ngồi trên bờ thì tầm nhìn bị giới hạn chỉ có một phía; ngồi trên thuyền xa bờ thì có thể thấy nhiều phía hơn, rộng hơn. Nhưng, đưa một chiếc thuyền câu lên mặt ao, tác giả cũng đặt mình trước nguy cơ: sự thiếu cân bằng của bức tranh. Từ "ao" vốn gợi lên một khoảng không gian nhỏ. Chiếc thuyền lại có thể lớn, không khéo thì phá vỡ mất vẻ xinh xắn, bé nhỏ, thanh tú của bức tranh mùa thu trong Thu điếu. Rất tỉnh táo và tinh tế trong chữ nghĩa, tiếp theo "chiếc thuyền câu", nhà thơ có ngay mấy từ "bé tẻo teo". Không phải "nhỏ" mà là "bé", nghĩa là rất nhỏ trong sự nhỏ, đã bé lại "bé tẻo teo", sự nhỏ càng được thu đến thật nhỏ, nhỏ tưởng có thể cầm lấy được trong tay, nhỏ và xinh xắn, nhẹ nhàng như món đồ chơi. Thế là bức tranh vẫn giữ được sự cân đối hài hòa. Mà bức tranh cũng rất thực nữa: trên mặt cái ao nhỏ của làng quê, nổi lên một chiếc thuyền câu nhỏ, có lẽ đó là một chiếc thuyền nan, thường được gọi là "thuyền thúng" rất phổ biến ở vùng quê miền Bắc, vừa vặn cho một người ngồi. Thật mà cứ như mơ, mơ mà rất thật! Cả không gian như co lại trong cái lạnh mùa thu.
Nhờ ngồi trên một chiếc thuyền câu như thế, giữa một cái ao như thế, nhà thơ đã nhận ra nhiều vẻ của mùa thu:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng màu xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Trong bốn câu thơ trên, ở hai câu thực là cảnh gần, ở hai câu luận là cảnh xa. Cảnh gần thì có "sóng biếc gợn" và "lá vàng đưa"; sóng biếc gợn thành hình, lá vàng đưa thành tiếng, nhưng cả tiếng và hình đều cực nhỏ, cuối hai câu thơ, nổi lên hai từ đối nhau: "tí", "vèo", một từ nói lên sự cực nhỏ của hình khối, một từ diễn tả sự cực nhỏ của âm thanh. Vẻ tĩnh lặng của mùa thu cứ tăng dần qua từng cấp độ: hơi gợn - tí, khẽ đưa - vèo. Hơn nữa qua âm thanh, nguoifw đọc còn nhận dạng được chiếc lá đang đưa: gió nhẹ, mà khiến được lá "sẽ đưa vèo"; chiếc lá ấy phải nhẹ, nhỏ, dài, thon nhọn; chắc không thể là lá gì khác ngoài lá tre, lá trúc. Không gian động mà tĩnh, có âm thanh mà vẫn vô thanh. Cái sóng ấy, cái tiếng lá bay ấy, chỉ như xao động lên, âm vang lên trong cõi lòng nhà thơ, một cõi lòng lạnh lẽo, trong treo, tĩnh lặng như làng quê, như mùa thu... ở hai câu luận, cảnh thu như xa hơn một chút, cảnh bên ngoài giới hạn của ao thu, nhưng vẫn được nhìn từ ao thu, phía trên là bầu trời mùa thu, trước mặt là làng xóm mùa thu. Trời thu xanh, xóm làng thì vắng vẻ. Nguyễn Khuyến rất yêu cái màu của trời thu: xanh ngắt. Trong cả ba bài thơ mùa thu của nhà thơ, da trời đều có màu xanh ấy:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắ
(Thu điếu)
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
(Thu vịnh)
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
(Thu ẩm)
Trong cảm xúc của Nguyễn Khuyến, cái màu xanh ngắt là màu xanh ở vẻ đặc trưng đầy khơi gợi của trời thu. Xanh ngắt là màu xanh ở độ tinh khiết tuyệt đối, không hề pha lẫn, không hề chắp nối. Nhưng để nhận ra màu xanh ấy của bầu trời, cảm nhận được vẻ đẹp của nó, bên dưới nói phải có lơ lửng một tầng mây. Tầng mây không phải là để phủ, để che, mà để làm rõ trời xanh ngắt. Nhà thơ Yên Đỗ quả là tinh tế!
Nhìn về làng xóm, mùa thu đến, cảnh vốn đã vắng lại càng vắng thêm ra vì ngõ trúc quanh co. Người đi lại đã ít, nếu có bóng người nào trong ngõ thì cũng bị quanh co ấy che khuất, cho nên cái vắng vẻ ở đây thành ra tuyệt đối "vắng teo".
Cả bốn câu thơ tả cảnh, tuy có dáng, có hình, có màu sắc, có âm thanh, nhưng khi đọc lên, từ nào cũng gợi ta phải đọc se sẽ. Tất cả đều chỉ như một làn gió nhẹ, một hơi thở nhẹ của mùa thu. Đọc xong cả bốn câu thơ, người đọc hơi thấy lạ: bài thơ về chuyện câu cá mà không dành một câu nào, thậm chí, từ nào nói chuyện câu cá. Ồ! Nhưng mà có đấy thôi, nếu không đang ở vị trí ngồi câu cá, cái tư thế đang ngồi câu cá, làm sao lại cảm nhận được mùa thu, cảnh thu như thế? Hẳn đây chính là chỗ "ý tại ngôn ngoại" của bài thơ này.
Bài thơ cho đến đây, đã hết sáu câu, vẫn chưa thấy xuất hiện con người. Đến hai câu cuối của bài thơ, con người chính là tác giả bài thơ mới xuất hiện. Sự xuất hiện này tạo lên cho bài thơ điều gì bất ngờ không? Bất ngờ thì có bất ngờ, nhưng bức tranh trời nước mùa thu thì không vì thế mà thay đổi. Vẫn cái vắng vẻ, tĩnh lặng ấy, vẫn cái bất động và vô thanh ấy, lần này thì có rút lại thêm một bực nữa:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được.
Ngồi câu cá mà ngồi ở tư thế đó thì có thể ngồi yên suốt một buổi, suốt một ngày. Tư thế "tựa gối ôm cần" một phần vì tiết thu, giữa "ao thu lạnh lẽo", ngồi "co ro" thế cho bớt lạnh, nhưng một phần còn bởi lòng người câu cá, ngồi như thế để có thể ngồi được lâu, mà trầm tư, mà thưởng thức, mà hòa cái trong trẻo, cái cô đơn của lòng mình vào cái tĩnh lặng và trong trẻo của mùa thu. Tưởng chừng người câu cá đã quên mất việc đến đây để ngồi câu cá. Thật ra thì vẫn nhớ đấy chứ, nhớ nên biết là mình ngồi câu đã lâu mà chưa có cá: Lâu chẳng được. Có điều, chờ mà không băn khoăn, không sốt ruột. Mục đích ngồi câu đâu phải để có cá. Hình như người ngồi câu đang chờ một điều gì đó nữa mà chính mình cũng không rõ. Thế rồi:
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Mấy tiếng đâu đớp động cùng một âm đầu hữu thanh làm rung động cả câu thơ. Cái rung động ấy khẽ đến nỗi như có mà lại như không. Cá có thể cắn câu mà cũng có thể không. Nhưng cần gì, riêng cái rung động mơ hồ ấy cũng đã đáng quý rồi, cái rung động ấy khiến cả không gian mùa thu như ngừng lắng lại, hồn nguoifw cũng ngừng lắng lại. Thật là một câu kết lạ lùng, kết lại mà mở ra, kết lại mà gợi tới bao nhiêu điều liên tưởng.
Điều gì khiến bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến mở thành một bài thơ bất hủ? Sự điêu luyện của nhà thơ trong việc sử dụng tiếng nói dân tộc, một thứ tiếng Việt uyển chuyển, phong phú, đạt đến mức tuyệt đối trong sáng và tinh tế ư? Vẻ đẹp giản dị, thực sự của mùa thu Việt Nam. Của làng quê Việt Nam ư? Tất cả đều đúng. Nhưng có điều này rất quan trọng: ấy là trong Thu điếu, ta nhận ra vẻ đẹp của tâm hồn: trong sáng và bình dị, tinh tế và chân thành, rất gắn bó với những gì thuộc về quê hương và dân tộc. Đọc Thu điếu, ta hiểu và tự hào thêm về làng quê và đất nước Việt Nam, yêu cái tình người đậm đà của con người Việt Nam.
Nghị luận Câu cá mùa thu - Mẫu 2
Nhắc đến Nguyễn Khuyến người ta không thể nào không nhắc đến chùm thơ thu của ông. Trong chùm thơ thu ấy có ba bài thơ thôi nhưng lại mang đến tất cả những cảnh mùa thu trên làng cảnh quê hương Việt Nam. Đặc biệt trong đó có bài thơ Câu cá mùa thu (Thu điếu) không những mang đến cho ta cảnh vật mùa thu mà còn mang đến những tâm trạng của nhà thơ và thú câu cá mùa thu.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, bài thơ có tám câu, mỗi câu có bảy tiếng. Theo như đặc điểm của thể thơ này thì mấy câu đầu chuyên về tả cảnh còn những câu thơ về sau thì nghiêng về tả tình. Tóm lại bằng những hiệu quả của thể thơ này thì Nguyễn Khuyến đã mang đến cho chúng ta một bức tranh thu và một bức tranh tâm trạng của người đang câu cá.
Trước hết là hai câu đề, hai câu thơ ấy có thể nói là những tả cảnh đẹp tiêu biểu của mùa thu. Bằng những cảm nhận của cảm giác trực quan Nguyễn Khuyến đã mang đến một bức tranh tuyệt vời của mùa thu:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Đúng là mùa thu câu cá, ngay mở đầu bài thơ Tam Nguyên Yên Đổ đã dựng lên một cảnh ao thu lạnh lẽo mà trong trẻo đến mức có thể thấy đáy của nó. Chính vì câu cá cho nên tác giả nhắc đến ao cá trước sau đó mới có bầu trời thu. Mùa thu đến không chỉ in dấu mình trên bầu trời cảnh vật mà nó còn in trên dòng nước của ao cá kia. Trên mặt ao người câu cá vẫn đang ngồi đợi cá cắn câu mà ngắm nhìn cái trong veo của nước. Nước ao ấy không có mà trong xanh như mùa hè mà nó mang một màu trong trắng trong trẻo.
Có thể là bầu trời thu kia đã làm cho màu của nước trở nên như thế. Và cũng trên mặt ao ấy cái se lạnh của mùa thu làm cho không gian thêm phần lạnh lẽo hơn. Trên cái bao la sâu thẳm của ao nước thì một chiếc thuyền câu bé tẻo teo trên xuất hiện. Nhà thơ thể hiện sự nhỏ bé của chiếc thuyền hay cũng chính là con người trữ tình trong cái rộng lớn của không gian nơi đây. Phải chăng nhà thơ đang thể hiện tâm trạng lạc lõng, lạnh lẽo cô đơn của bản thân mình qua sự nhỏ bé của con thuyền ấy. Hai chữ “tẻo teo” gợi cho ta sự nhỏ bé vô cùng của con thuyền, dường như trong bức tranh thu ấy con thuyền chỉ như một dấu chấm to hay có thể là to hơn dấu chấm một chút mà thôi.
Như vậy nhà thơ không bắt đầu vẽ bức tranh thu bằng một bầu trời trong trẻo, cũng không làm dấu hiệu thu bằng hương ổi như nhà thơ Hữu Thỉnh mà tập trung vào miêu tả những màu sắc không khí lạnh lẽo của ao thu.
Đến hai câu thơ tiếp theo chúng ta lại được đắm chìm trong sự hấp dẫn của cảnh vật nơi đây. Và đặc biệt chúng ta cũng thấy được sự chuyển động của mùa thu trên ao cá ấy:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo”
Nói là chuyển động nhưng thật sự phải nói là cố gắng nhìn lắm thì mới có thể phát hiện ra được. Mùa thu vốn nhẹ nhàng như thế nên nó luôn hội tụ tất cả những gì gọi là nỗi niềm của con người. Trên ao cá ấy những con sóng cũng xuất hiện tuy nhiên nó không phải là cái sóng dữ dội mà nó chỉ “gợn tí”. Một chữ sóng gợn thôi cũng đã đủ làm cho ta thấy được sự im ắng đến chuyển động cũng như không huống chi ở đây nhà thơ lại dùng đến ba từ là “hơi gợn tí”. Có thể thấy nhà thơ đã quan sát tinh tế lắm mới miêu tả được như thế. Sóng mang màu xanh biếc và sự chuyển động của sóng còn lá thì sao.
Trong bức tranh mùa thu ấy Nguyễn Khuyến đã điểm thêm chiếc lá vàng trước gió nhè nhẹ của mùa thu mà khẽ đưa vèo. Ở đây ta thấy lạ vì “vèo” thường dùng để chỉ trạng thái nhanh chứ không phải chậm như thế kia. Có thể nói Nguyễn Khuyến đã sử dụng từ đó để thể hiện ý đồ nghệ thuật của bản thân mình. Chiếc lá vàng kia rơi nhẹ thật nhưng nó chao nghiêng rồi lượn lượn mấy vòng như là lao đầu xuống thì tác giả gọi nó là vèo chứ không phải là nó rơi nhanh.
Như vậy hai câu thơ này đã mang đến cho chúng ta thêm những hình ảnh và sự chuyển động của những hình ảnh ấy. Vậy là bức tranh thiên nhiên không chỉ có màu sắc hình ảnh mà còn có cả những không khí những chuyển động đậm chất mùa thu.
Hai câu thơ trên với những chuyển động nhẹ nhàng khép lại để nhường cho hai câu thơ tiếp bật lên:
“Tầng mây lơ lửng, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo”
Lại là những màu sắc hình ảnh của mùa thu nhưng trong cái cảnh thu ấy lại thấy được cái tình thu của lòng người. Bây giờ tác giả không quan sát những vật trên mặt ao nữa mà nhìn lên trên phía bầu trời với những đám mây lơ lửng. Nhà thơ như ngắm nhìn màu trời của mùa thu. Những đám mây thì lơ lửng trên cao nhẹ nhàng lắm còn bầu trời khoác lên mình màu xanh ngắt yêu làm sao. Nhìn lên bầu trời rồi nhà thơ lại nhìn xuống dưới những ngõ trúc quanh co của làng quê mà không thấy bất cứ một ai cả. Có thể nói đến hai câu thơ này không gian không chỉ bó hẹp trong cái ao thu kia nữa mà nó mở rộng lên cả không gian của bầu trời và ngõ trúc. Ấy thế mà không có bất cứ một tiếng động của một chú chim nào hay một tiếng đi của bước chân người. Không gian càng rợn ngợp bao la hơn như đang dần nuốt lấy cái cô đơn của nhà thơ.
Tâm trạng của nhà thơ được thể hiện rõ, đó là sự cô đơn lạc lõng buồn khi không có ai bầu bạn, buồn vì tuy về ở ẩn rồi nhưng tâm trạng không thấy khá hơn. Nỗi lo cho nhân dân bấy lâu nay không bao giờ nguôi nhưng lại bất lực không thể giúp gì.
Kết thúc bài thơ và dòng tâm trạng của mình Nguyễn Khuyến lại trở lại với những hình ảnh của một cụ già ngồi câu cá, ngồi đợi cá cắn câu:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Trạng thái “tựa gối ôm cần” cho thấy sự buồn chán của nhà thơ, có lẽ nhà thơ không phải ngồi ở đó để câu cá mà ngồi ở đó trong tư thế của người trầm tư đang suy nghĩ về một vấn đề gì đó. Không phải không có cá cũng không phải cá không cắn câu mà nhà thơ tay thì ôm cần nhưng đầu lại không nghĩ đến việc câu cá. Còn những con cá kia lại đớp động dưới chân bèo. Những hình ảnh thơ vô cùng gần gũi với làng cảnh Việt nam và cũng rất đặc trưng cho thu bởi hình ảnh nhẹ nhàng. Cuối cùng thì kết lại bài thơ cũng có những âm thanh tuy là rất nhỏ của tiếng cá.
Tóm lại qua bài thơ ta thấy được một bức tranh thu có đầy đủ màu sắc âm thanh, hình ảnh, chuyển động thế nhưng màu sắc ấy chỉ là những màu nhẹ nhàng, âm thanh ấy chỉ là những âm thanh nhỏ nhẹ, hình ảnh chuyển động ấy gần như là không. Và cảnh dường như mang tâm trạng của nhà thơ. Đó chính là tâm trạng lo lắng cho nhân dân, buồn trước cuộc đời không như ý mong muốn của mình.
Nghị luận bài Câu cá mùa thu - Mẫu 3
Nhà thơ Nguyễn Khuyến hiệu là Quế Sơn quê ở Nam Định, là người đỗ đạt cao nhưng với cốt cách thanh cao cùng tấm lòng yêu nước thương dân nên phần lớn cuộc đời ông là dạy học và sống an nhàn nơi quê nhà. Nguyễn Khuyến được mệnh danh là một trong những nhà thơ của làng cảnh Việt Nam qua những sáng tác thơ đậm đà tính dân tộc và lấp lánh vẻ đẹp thiên nhiên trong đấy, cùng với bút pháp chấm phá tài hoa cùng sự kết hợp tuyệt vời giữa thi ca và hội họa qua “chùm thơ thu” thì tên tuổi Nguyễn Khuyến trở nên bất tử khi khắc họa thành công những bức tranh thu kinh điển của làng quê Việt Nam. Thu điếu nằm trong “chùm thơ thu” với thể thơ đường luật thất ngôn bát cú đã vẽ nên cảnh trời thu bao trùm bởi khung cảnh rộng lớn màu xanh và trong veo.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
…
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến là những hình ảnh thân quen và dung dị, là kết tinh những nét đặc trưng nhất của làng quê Việt Nam. Nguyễn Khuyến vẽ nên trong thơ của mình bằng những nét cọ thuần khiết về cảnh vật mùa thu qua sự quan sát tinh tế của đôi mắt và của tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu quê hương. Khung trời cao rộng được thu nhỏ vào tầm mắt để có thể quan sát được những chuyển biến dù là bé nhất của không gian cùng sự kết hợp màu sắc hài hòa của muôn vật trong cái tĩnh lặng bao trùm. Xuất hiện đầu tiên trong bài thơ là cái “ao thu” quê hương cùng “chiếc thuyền câu” đang gập ghềnh bởi làn nước lăn tăn những vòng sóng nhỏ
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Giữa làng quê xuất hiện một chiếc gương phản chiếu cảnh trời dưới dòng nước lạnh mà trong veo. Làng mạc Yên Đổ là vùng đồng chiêm đồng trũng quanh năm nước ngập, dân phải lấy đất đắp cho cao nên ao cứ thế nối tiếp ao và Nguyễn Khuyến đã đưa cái ao nhỏ quê hương vào thơ với thái độ trân trọng trìu mến. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng bé lại.
Xung quanh thực tĩnh lặng với hình ảnh chiếc thuyền câu nhẹ thênh thênh đang lững lờ mặc dòng nước chảy. Tiếng động nhỏ ấy càng làm tăng thêm phút lặng trong cảnh mà còn trong tâm của người đi câu đang say sưa với cảnh trời đất bao la cao vợi. Từ láy “tẻo teo” nhấn mạnh sự trơ trọi đơn độc của một chiếc thuyền giữa không gian cao rộng của trời thu. Tiếp đó là nhịp thở của thu bắt đầu bằng những bước chuyển nhẹ nhàng
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Ao bây giờ không còn tĩnh lặng nữa mà đã bắt đầu gợn lăn tăn theo làn hơi, lá thì theo gió heo may bay lững lờ. Sóng với màu biếc hòa cùng lá vàng mới đẹp và thanh tao làm sao, ngòi bút nhà thơ lúc này mới thật chi tiết khi kết hợp thành vế đối hoàn chỉnh “sóng biếc” với “lá vàng” “hơi gợn tí” với “khẽ đưa vèo”, thật tài tình. Tâm hồn nhà thơ lúc này dường như cũng hòa theo nhịp gợn của sóng nhịp rơi của chiếc lá vàng trong từng khoảnh khắc. Cách phác họa một góc mùa thu bằng nét duyên dáng nhẹ nhàng giữa màu sắc và âm thanh khéo léo. Mọi cử động của thu đều như say say và mơ màng đến lạ ngay chính nhà thơ cũng bị cuốn hút theo.
Gió nhẹ thổi vào tâm hồn những gì êm ái và dịu dàng. Bức tranh thu lúc này đã thêm được chút màu sắc tươi tắn hơn. Tầm nhìn của nhà thơ nâng cao hơn khi nhà thơ khẽ ngẩng đầu nhìn lên và bắt gặp thêm một màu xanh nữa, xanh trong mà thanh khiết hơn
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Trời thu cao vời vợi qua những tầng mây, có cái thăm thẳm của chiều cao, khoáng đạt hơn. Màu xanh ấy sao mà đẹp mà tha thiết. Điểm xuyết bởi những cụm mây trắng cứ lơ lửng nơi ấy. Bất giác quay về với làng quê hình ảnh ngõ trúc vắng làm lắng đọng trong tác giả nỗi cô đơn vắng vẻ. Đường làng quê yêu dấu vẫn cứ quen thuộc làm sao bởi bóng tre bóng trúc trùm mát rượi, nét thơ vừa thi vị thơ mộng vừa đặc trưng cho miền làng quê Bắc Bộ. Dường như tình yêu quê vẫn chưa bao giờ nguôi dù chỉ là thoáng nhánh trúc chiếc lá rơi trước mắt tác giả. Trong khoảnh khắc đó sự trống trải từ đâu lan tỏa và làm đượm buồn đi mất bức tranh thu trong cái yên ắng và vắng lặng.
Cái hồn của cảnh vật xung quanh của đồng quê hiện rõ trong từng câu từng chữ mộc mạc giản dị và đôn hậu. Bằng hình ảnh đẹp giàu màu sắc và cách nhìn khái quát từ gần đến xa từ thấp đến cao từ tĩnh đến động nhà thơ tạo nên khung cảnh trời thu bao la trong xanh và tươi đẹp. Và cảnh thiên nhiên bấy giờ cũng như đồng điệu với những xúc cảm, tâm trạng ưu tư của nhà thơ. Giữa cảnh thơ mộng tác giả lặng thinh với thú vui câu cá tao nhã của mình, dáng người đi câu như là một phần trong khung cảnh thu nhỏ ấy. Nhà thơ đắm mình vào thiên nhiên như muốn quên đi những phút bận lòng vì nỗi lo lớn:
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Tư thế ngồi ưu tư trong dòng suy nghĩ mênh mông khi tác giả ngồi đã lâu mà chưa câu được cá, trong lòng cứ nhưng đang chất chứa một nỗi lòng sâu kín. Đâu đó tiếng cá đớp mồi xao động mặt nước rồi cũng vô tình làm xao động tâm hồn nhạy cảm đang lặng yên của tác giả, có cá hay không tác giả cũng không chắc chỉ biết lúc này đây tâm trí vẫn đang rối bời vì lo cho dân cho nước, ray rứt băn khoăn mãi không thôi. Tâm trạng thời thế là động lực để nhà thơ quay về với thú vui đi câu mong khuây khỏa được nỗi lòng nhưng giữa cái tĩnh quá đỗi nơi đây cùng sự cô đơn thì nỗi u hoài vẫn dấy lên trong lòng không dứt. Câu thơ hay với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, mọi vật giống như đứng yên nhưng thật ra vẫn âm thầm vận động.
Cảnh làng quê hiện lên một cách chân thực đậm đà phong vị Việt Nam trong thơ Nguyễn Khuyến cũng vì lòng yêu nước và tâm hồn như hòa quyện vào thiên nhiên. Bài thơ gieo vần độc đáo cùng cách sử dụng từ ngữ tài tình có sức gợi hình mạnh tạo nên quang cảnh sống động hấp dẫn. Ngôn ngữ thơ chính xác, trong sáng và dễ hiểu càng làm nổi bật tài năng của Nguyễn Khuyến.
Sở trường của Nguyễn Khuyến không chỉ trong thơ trữ tình mà còn trong thơ tả cảnh nhất là trong chùm thơ thu. Xuất phát từ tâm hồn tinh tế bức tranh Nguyễn Khuyến vẽ nên không chỉ là bức tranh thiên nhiên cao đẹp mà còn là bức tranh tâm trạng vì nỗi lo lớn chưa tìm được giải đáp. Qua đó cốt cách thanh cao yêu nước thương dân càng bộc lộ rõ nét hơn, ta thầm ngưỡng mộ tài đức của nhà thơ Nguyễn Khuyến.