Văn mẫu lớp 9: Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng (Sơ đồ tư duy + 9 mẫu) Truyện ngắn Làng của Kim Lân
Lập dàn ý phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân gồm 9 mẫu hay nhất, giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng để triển khai thành bài văn phân tích truyện ngắn Làng chi tiết, đầy đủ những ý quan trọng.
Sau khi xây dựng xong dàn ý, các em sẽ bám sát vào đó để triển khai đầy đủ ý quan trọng, không lo thiếu ý. Qua đó, cho chúng ta thấy được tình yêu làng, yêu nước tha thiết của nhân vật ông Hai. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:
Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân
- Sơ đồ tư duy Phân tích truyện ngắn Làng
- Phân tích truyện ngắn Làng chi tiết
- Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 1
- Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 2
- Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 3
- Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 4
- Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 5
- Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 6
- Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 7
- Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 8
Sơ đồ tư duy Phân tích truyện ngắn Làng
Phân tích truyện ngắn Làng chi tiết
I. Mở bài
- Kim Lân là nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người dân Miền Bắc. Ông có sở trường viết truyện ngắn và truyện của ông thường viết về đề tài nông dân. Truyện ngắn “Làng” được ông sáng tác trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ trên quy mô toàn quốc. Đây là một tác phẩm xuất sắc thể hiện thành công hình ảnh người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến mà tình yêu làng quê đã hoà nhập tròng lòng yêu nước và tinh thần của người dân kháng chiến. Nhân vật ông Hai trong truyện có những nét tình cảm cao đẹp và đáng quý đó.
II. Thân bài:
1. Tình yêu làng nói chung:
- Ở mỗi người nông dân, quả thực tình yêu làng quê là bản chất có tính truyền thống. Yêu làng, gắn bó với làng, tự hào về làng của mình vốn là tâm lý rất quen thuộc có tính gốc rễ. Vậy người nông dân thường tự hào, hãnh diện về làng:
Làng ta phong cảnh hữu tình
Dân cư giang khúc như hình con long
2. Ở nhân vật ông Hai, tình yêu quê hương, yêu làng Dầu đã quyện chặt với lòng yêu nước. Đây là vẻ đẹp đáng quý của nhân vật, cũng là điều tâm huyết nhất mà nhà văn muốn nói với người đọc.
a. Luận điểm 1: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi đi tản cư.
- Cũng như bao con người Việt Nam khác ông Hai cũng có một quê hương để yêu thương, gắn bó. Làng chợ Dầu luôn là niềm tự hào, kiêu hãnh của ông. Kháng chiến bùng nổ, người dân phải dời làng đi sơ tán, ông Hai cũng theo dòng người ấy sơ tán đến một miền quê xa xôi, hẻo lánh. Ông Hai thực sự buồn khi phải xa làng. Ở nơi tản cư, lòng ông đau đáu nhớ quê, cứ “ nghĩ về những ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng quá.
- Ông Hai luôn khoe và tự hào về cái làng Dầu không chỉ vì nó đẹp mà còn bởi nó tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc.
- Ông luôn tìm cách nghe tin tức về kháng chiến “chẳng sót một câu nào”. Nghe được nhiều tin hay , những tin chiến thắng của quân ta, ruột gan ông cứ múa cả lên, náo nức, bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc.
b. Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc: (Nhưng khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc thì bao nhiêu tình cảm tốt đẹp ấy trong ông Hai bỗng nhiên biến thành những nỗi lo âu, dằn vặt)
- Khi nghe tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy”. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay cũng đã lại quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một nửa.
- Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Ông tìm cách lảng tránh những lời bàn tán và cúi gằm mặt xuống ra về. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”, về đến nhà ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Bao nhiêu câu hỏi dồn về xoắn xuýt, bủa vây làm tâm trạng ông rối bời trong cơn đau đớn, hụt hẫng đến mê dại, dữ dằn và gay gắt.. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.
- Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ây”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam -nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”
- Nhưng chính lúc này, tình cảm đẹp trong con người ông Hai lại càng được bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Những đau đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào một tình huống phải lựa chọn. Quê hương và Tổ Quốc, bên nào nặng hơn? Quê hương đáng yêu, đang tự hào… Nhưng giờ đây…. dường như mới chỉ nghĩ tới đó, lòng ông Hai đã nghẹn đắng lại. Tình yêu quê hương và tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông. Một ý nghĩ tiêu cực thoáng qua trong đầu: Hay là quay về làng. Nhưng rồi ông cảm thấy “rợn cả người”. Ông đã từng nhớ làng da diết, từng ao ước được trở về làng. Nhưng “vừa chớm nghĩ, lập tức ông lão phản đối ngay” bởi vì “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy,tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu, cũng không thể mạnh hơn tình yêu đất nước.
- Chuẩn mực cho tình yêu và niềm tự hào về quê hương, đối với ông Hai lúc bấy giờ là cuộc kháng chiến. Tuy đau xót tưởng chừng bế tắc nhưng trong cõi thẳm sâu của tấm lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến, vẫn tin ở những điều tốt đẹp, cố giữ cho tâm hồn không vẩn đục, để đón đợi một điều gì đỡ đau đớn, tuyệt vọng hơn.
+ Khi tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ, nghe con nói: “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”, nước mắt ông Hai cứ giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má, giọng ông như nghẹn lại: “ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?”. Phải chăng, trong tâm hồn người nông dân chất phác ấy vẫn không phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương, yêu quê hương và nỗi đau đớn khi nghe tin quê hương rời xa công việc chiến đấu chung của đất nước bấy giờ? Tâm sự với đứa con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đồng thời ông nhắc con- cũng là tự nhắc mình “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. Tấm lòng thuỷ chung với kháng chiến, với cách mạng thật sâu nặng, bền vững và thiêng liêng: “Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ đám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ đám đơn sai”.
c. Luận điểm 3: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng kháng chiến (Niềm vui của ông Hai khi tin đồn được cải chính.
- Đến khi biết đích xác làng Dầu yêu quý của ông không phải là làng Việt gian, nỗi vui mừng của ông Hai thật là vô bờ bến: “Ông cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người”, mặt ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Đối với người nông dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời, vậy mà ông sung sướng hể hả loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự của mình. Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra hồn nhiên như không thể kìm nén được của người dân quê khi được biết làng mình là làng yêu nước dẫu cho nhà mình bị giặc đốt. Tình yêu làng của ông Hai thật là sâu sắc và cảm động.
- So với lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao trước cách mạng tháng Tám, rõ ràng ta thấy ông Hai có những điểm tiến bộ vượt bậc trong nhận thức, tâm hồn, tình cảm và tính cách. Đó chính là nhờ vào đường lối giác ngộ cách mạng của Đảng, Bác Hồ mà học có được. Lão Hạc và ông Hai có những điểm tính cách khác nhau nhưng họ vẫn có những phẩm chất của những người nông dân giống nhau, đều hiền lành, chất phác, lương thiện. Khi cách mạng tháng Tám thành công đã đem đến sự đổi đời cho mỗi người nông dân. Từ một thân phận nô lệ phụ thuộc họ trở thành một người tự do làm chủ cuộc đời, làm chủ đất nước. Từ đó đã củng cố và làm nền tảng vững chắc cho tình yêu quê hương, đất nước, trở thành một tình cảm vững bền, thiêng liêng sâu nặng, nồng cháy. => Trong hoàn cảnh toàn dân đang hướng tới cuộc kháng chiến chống pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, ông Hai đã biết đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu cá nhân của mình với làng chợ Dầu, ông dành tất cả cho cách mạng. Đó chính là nét đẹp trong con người ông Hai nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.
- Văn hào I li a, E ren bua có nói: …” Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu tổ quốc. Ông Hai đúng là một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn bó với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội nguồn của lòng yêu nước.
d. Luận điểm 4: Nghệ thuật xây dựng nhân vật ông Hai
- Nhà văn Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai, một lão nông cần cù, chất phác, yêu mến, gắn bó với làng quê như máu thịt.
+ Nhà văn đã chọn được một tình huống khá độc đáo là sự thử thách bên trong bộc lộ chiều sâu tâm trạng.
+ Tâm lý nhân vật được nhà văn miêu tả cụ thể, gợi cảm qua các diễn biến nội tâm, qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt là nhà văn đã diễn tả đúng và gây được ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật.
VD1 (tâm trạng): Khi nghe tin làng theo giặc thì bị dằn vặt, đau khổ: «Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không dám sang. Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng. …… thôi lại chuyện ấy rồi». Khi tin đồn được cải chính thì «cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên».
VD2: Miêu tả đúng các «phản ứng» bằng hành động của một người nông dân hiền lành, chất phác và chưa đọc thông, viết thạo: Khi muốn biết tin tức thì: «ông cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm». Khi nghe tin làng theo giặc thì «ông Hai cứ cúi gằm mặt xuống mà đi » rồi « nắm chặt hai bàn tay mà rít lên: «chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này». Khi tin đồn được cải chính thì « ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin đồn ấy với mọi người.
VD3: Ngoài ra còn phải kể đến các hành động, lời nói, suy nghĩ của nhân vật ông Hai trong mối quan hệ với các nhân vật khác như: Bà Hai, các con, mụ chủ nhà….
+ Các hình thức trần thuật (đối thoại, độc thoại….)
III. KẾT BÀI
Qua truyện ngắn “Làng”, tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng một người nông dân yêu làng, yêu nước hồn nhiên chất phác nhưng xúc động. Hình tượng nhân vật ông Hai vừa phản ánh chân thực những nếp cảm, nếp nghĩ của người nông dân Việt Nam trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với nhiều thế hệ bạn đọc. Qua truyện ngắn này, ta có thể hiểu được một cách sâu sắc thêm về hình ảnh những người dân kháng chiến Việt Nam với tình yêu quê hương đất nước.
Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 1
I. Mở bài
- Về đề tài quê hương đất nước trong văn học: Đây là một đề tài quen thuộc của văn học nhưng không bao giờ xưa cũ
- Giới thiệu về tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân: Một tác phẩm viết về đề tài quen thuộc nhưng vẫn để lại những rung động sâu sắc trong lòng độc giả bởi tình yêu làng yêu nước và tinh thần kháng chiến của nhân vật ông Hai- nhân vật trung tâm của tác phẩm
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh đặc biệt của ông Hai
- Xuất thân là một người nông dân quanh năm gắn bó với lũy tre làng
- Một người yêu làng nhưng phải rời làng đi tản cư
2. Cuộc sống của ông Hai ở nơi tản cư
a. Tình cảm của ông Hai với làng
- Ông đau đáu nhớ về quê hương, nghĩ về “những ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng
- Ông khoe về làng: giàu và đẹp, lát đá xanh, có nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre
- Ông luôn đến phòng thông tin nghe ngóng tình hình về ngôi làng của mình
b. Tình cảm của ông Hai với đất nước, với kháng chiến
- Ông Hai yêu nước và giàu tinh thần kháng chiến
- Đến phòng thông tin đọc báo, nghe tin tức về kháng chiến.
- Lúc nào cũng quan tâm đến tình hình chính trị thế giới, các tin chiến thắng của quân ta
- Trước những tin chiến thắng của quân ta, ruột gan cứ múa cả lên
⇒ ngôn ngữ quần chúng, độc thoại ⇒ Tự hào, vui sướng, tin tưởng khi nghe tin về cuộc kháng chiến, đó là niềm vui của một con người biết gắn bó tình cảm của mình với vận mệnh của toàn dân tộc
3. Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng của mình theo giặc.
a. Khi vừa nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.
- Khi mới nghe tin, ông sững sờ, xấu hổ:
- “Cổ họng nghẹn ắng, da mặt tê rân rân”
- Lặng đi không thở được, giọng lạc đi
- Lảng chuyện, cười nhạt, cúi gằm mặt xuống mà đi
⇒ Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật ⇒ bẽ bàng, xấu hổ, ê chề nhục nhã.
b. Về đến nhà trọ.
- Nằm vật ra giường, tủi thân, nước mắt giàn ra.
- Ông tự hỏi và buồn thay cho số phận những đứa con của mình: “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?”
- Ông nắm chặt tay, rít lên: “chúng bay … mà nhục nhã thế này”
⇒ Nghệ thuật miêu tả tâm trạng qua hành động, thái độ, cử chỉ ⇒ Nỗi cay đắng tủi nhục, uất hận trước tin làng theo giặc
c. Những ngày sau đó.
- Không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở nhà, chột dạ, nơm nớp, lủi ra một góc, nín thít.
⇒ Nỗi ám ảnh nặng nề, biến thành sự sợ hãi thường xuyên.
- Khi mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi đi: ông bế tắc, tuyệt vọng.
- Ông băn khoăn trước quyết định “hay là về làng” nhưng cuối cùng ông đã gạt bỏ ngay ý nghĩ bởi đối với ông: “làng đã theo Tây, về làng nghĩa là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ”
- Ông trò chuyện với đứa con út để khẳng định thêm : “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”
4. Tâm trạng ông Hai khi nghe tin cải chính.
- Thái độ ông Hai thay đổi hẳn:
- “cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”
- mồm bỏm bẻm nhai trầu, mắt hấp háy
- Chạy đi khoe khắp nơi về làng của mình
⇒ Vui mừng tột độ, tự hào, hãnh diện khi làng không theo giặc, cũng đồng thời thấy được tình yêu làng, yêu nước của người nông dân như ông Hai
III. Kết bài
- Khái quát về giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm
- Liên hệ tới lòng yêu làng quê, yêu đất nước hôm nay
Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 2
1. Mở bài
- Giới thiệu về truyện ngắn Làng của Kim Lân.
2. Thân bài
* Hoàn cảnh của ông Hai
- Người dân làng chợ Dầu
- Yêu làng nhưng vì hoàn cảnh phải rời xa làng để đi tản cư
- Ông Hai luôn nhớ về làng chợ Dầu, nhớ về những ngày cùng anh em làm việc
- Khoe với mọi người nơi tản cư về sự giàu đẹp, truyền thống đấu tranh của ngôi làng
* Tình huống bất ngờ:
- Làng chợ Dầu ông vẫn luôn thương nhớ, tự hào đi theo giặc.
--> Tình huống bất ngờ, éo le góp phần bộc lộ những vẻ đẹp bên trong con người ông Hai.
* Vẻ đẹp của ông Hai:
- Yêu làng, một lòng hướng về làng:
- Luôn nghe ngóng thông tin về làng
- Tự hào, kiêu hãnh về truyền thống đấu tranh của làng
- Khi nghe tin làng theo giặc: cổ họng nghẹn ắng, giọng lạc đi, đau khổ dằn vặt
--> Cay đắng, tủi nhục khi nghe tin làng theo giặc.
- Rạng rỡ, hạnh phúc khi nghe tin cải chính, chạy đi khoe khắp nơi về làng của mình
- Yêu nước, một lòng trung thành với cách mạng:
- Đến phòng thông tin nghe tin tức về kháng chiến.
- Nghe ngóng được những tin chiến thắng của quân ta “ruột gan cứ múa cả lên”.
- Đứng về phía cách mạng “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”.
3. Kết bài
- Khái quát ngắn gọn giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm
- Liên hệ tới tình yêu nước, trách nhiệm với đất nước của thế hệ trẻ hiện nay.
Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 3
a) Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
- Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 - 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc, gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân.
- Làng (1948) đã thể hiện thành công vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam với làng, với nước trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.
b) Thân bài
* Khái quát về tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Làng” được viết năm 1948 - thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Nội dung cốt truyện: Ông Hai là một người vô cùng yêu quý làng quê mình vì thế khi Pháp đến đánh chiếm ông quyết định ở lại làng làm du kích, làm thanh niên chống giặc dù tuổi đã cao. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình ông buộc phải tản cư lên thị trấn Hiệp Hòa. Thế rồi một hôm ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, khi đó ông đã vô cùng đau khổ. Nhưng cho đến khi nghe tin cải chính về làng ông vui sướng đến mức đi khoe nhà ông bị đốt hết trong niềm tự hào.
* Luận điểm 1: Phân tích tình huống truyện
- Tình huống: Ông Hai luôn yêu và tự hào về làng của mình, nay nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
-> Tình huống đối nghịch với tình cảm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông Hai, khác với suy nghĩ về một làng quê “tinh thần cách mạng lắm” của ông.
- Ý nghĩa của tình huống: Tình huống khiến diễn biến tâm trạng nhân vật thay đổi mạnh mẽ, thử thách lòng yêu làng và yêu nước của nhân vật ông Hai.
* Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước ở nhân vật ông Hai
- Tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng
- Ông khoe về làng: giàu và đẹp, lát đá xanh, có nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre...
- Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho tới cái sinh phần của tổng đốc làng ông, vinh dự vì làng có bề dày lịch sử.
- Tình yêu làng của ông Hai sau Cách mạng.
+ Ông khoe về tinh thần cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập, ông khoe những hố, ụ và hào.
- Diễn biến tâm trạng ông Hai:
- Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
- Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
- Khi biết tin làng chợ Dầu theo Tây được cải chính.
- Đặc sắc nghệ thuật:
- Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân
- Lời nói trần thuật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu theo lời nhân vật ông Hai (ngôi thứ 3)
- Ngôn ngữ nhân vật của ông Hai vừa mang nét chung của người nông dân nhưng cũng mang điểm riêng biệt đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động
- Giọng điệu trần thuật tự nhiên thân mật đôi khi dí dỏm của nhân vật.
- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.
c) Kết bài
- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện.
Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 4
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả:
- Kim Lân quê ở Bắc Ninh, sinh ra và lớn lên trong một gia đình khó khăn nhưng ông rất có ý chí và nghị lực vươn lên.
- Do hoàn cảnh gia đình nên ông gắn bó với nông thôn và người nông dân; Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng.
Giới thiệu tác phẩm:
- Truyện ngắn Làng được viết năm 1948 trong thời kì kháng chiến chống Pháp. In trong tập văn tuyển tập 1945-1956
- Đoạn trích thể hiện tình yêu làng và lòng yêu nước của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp
2. Thân bài
2.1. Tình huống truyện
“Tin làng Chợ Dầu theo Tây”
=> Từ đó bộc lộ được những đặc sắc gay cấn trong diễn biến câu chuyện và bộc lộ được tình yêu làng và lòng yêu nước của nhân vật ông Hai.
2.2. Diễn biến tâm lí của ông Hai
Trước khi nghe làng theo Tây
Ông hay: khoe làng”, và bộc lộ nỗi “nhớ làng” những chi tiết đó cho thấy ông luôn tự hào và rất yêu quý làng quê của mình
Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng theo Tây
“Cổ ông lão nghe ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặn đi, tưởng như đến thở không được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ…” đó là một việc quá đỗi bất ngờ đối với ông Hai - vốn dĩ lúc nào ông cũng đinh ninh tự hào về làng của mình.
“Ông Hai cúi gằm mặt mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà” chi tiết cho thấy ông Hai thật sự hổ thẹn với mọi người, đau khổ tột cùng trong lòng.
Tâm trạng ông càng nặng trĩu hơn khi về đến nhà:
“Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu.”
“Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”
“làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”
=> Nhưng câu văn ấy cho thấy từ tâm trạng dằn vặt đau khổ đến sự rối bời trong tâm trí của nhân vật ông Hai. Tình yêu làng đã khiến ông tự hổ thẹn và đau khổ tột cùng như thế. Với tình yêu làng mãnh liệt như thế nên một khi làng đã phản bội sự tin yêu của ông thì phải thù. Đó cũng chính là tích cách bộc trực đáng quý của người nông dân
Tin làng được cải chính
“Ông Hai mãi đến sẫm tối mới về. Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung đỏ, hấp háy… Vừa đến ngõ, ông lão đã lên tiếng:
Chúng mày đâu rồi ra thầy chia quà nào”
=> Vốn dĩ người nông dân trước cách mạnh có tinh thần yêu nước rất sâu đậm và ghét kẻ bán nước. khi biết làng Chợ Dầu không theo Tây ông về mà khoe rằng: “Tây nó đốt nhà tôi rồi”
=> Cho thấy được tâm trạng của ông Hai hết sức vui mừng khi nghe tin làng được cải chính. Chứng minh được bản thân ông trong sạch và quan trọng hơn là làng ông cũng thế, cả hai đều bộc lộ tình yêu nước sâu sắc và quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược.
3. Kết bài
- Tác giả Kim Lân đã rất thành công trong việc xây dựng tình huống truyện và trong việc miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật
- Đoạn trích thể hiện tình yêu Làng và lòng yêu nước sâu đậm của người nông dân thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 5
I. Mở bài
- Giới thiệu truyện ngắn Làng, tác giả Kim Lân
- Dẫn dắt vấn đề nghị luận: thành công về nghệ thuật thể hiện tài năng viết truyện ngắn của nhà văn
II. Thân bài
1. Khái quát truyện ngắn Làng
- Hoàn cảnh sáng tác
- Cốt truyện
- Câu chuyện kể về nhân vật ông Hai người yêu làng, sau khi rời làng tản cư ông Hai luôn nhớ về làng, khoe làng của mình với mọi người
- Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc,ông thấy bẽ bàng, tủi hổ, đau xót không dám ra ngoài chỉ ở trong nhà, mỗi khi nghe thấy ai nhắc tới từ Việt gian theo Tây ông lão đều lảng tránh. Mãi tới khi được cải chính, ông Hai mới vui vẻ trở lại, và tiếp tục hãnh diện khoe làng chợ Dầu của mình
2. Phân tích đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm để thấy tài năng viết truyện ngắn của Kim Lân
- Nghệ thuật tạo dựng tình huống làm bộc lộ chiều sâu tâm trạng nhân vật
- Đặt nhân vật vào tình huống éo le, bất ngờ: Ông Hai luôn yêu và tự hào về làng của mình, nay nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
- Tình huống khiến diễn biến tâm trạng nhân vật thay đổi mạnh mẽ, thử thách lòng yêu làng và yêu nước của nhân vật ông Hai
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật chủ yếu qua việc miêu tả nội tâm:
- Tâm trạng ông Hai biến chuyển từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc tới khi nghe tin cải chính diễn ra phức tạp, tinh tế
- Nhiều đoạn miêu tả tâm lí rất sâu sắc ( ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc: da mặt tê rân rân, cổ nghẹn ắng lại, lúc ông Hai lựa chọn giữa tình yêu nước với tình yêu làng)
- Gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật chứng tỏ Kim Lân am hiểu về người nông dân và thế giới tinh thần của họ
- Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đặc sắc: ngôn ngữ truyện đặc sắc nhất là ngôn ngữ nhân vật ông Hai.
- Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân
- Lời nói trần thuật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu, truyện được trần thuật chủ yếu theo lời nhân vật ông Hai (hình thức trần thuật ngôi thứ 3)
- Ngôn ngữ nhân vật của ông Hai vừa mang nét chung của người nông dân nhưng cũng mang điểm riêng biệt đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động
- Giọng điệu trần thuật tự nhiên thân mật đôi khi dí dỏm của nhân vật
III. Kết bài
- Tác giả thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật và ngôn ngữ nhân vật
- Những đặc sắc về nghệ thuật góp phần thể hiện tư tưởng của tác phẩm: tình yêu làng, lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân trong hoàn cảnh tản cư
- Khẳng định Kim Lân là cây bút truyện ngắn xuất sắc và có sức lay động tới trái tim người đọc.
Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 6
(1) Mở bài
Giới thiệu về nhà văn Kim Lân, truyện ngắn Làng.
(2) Thân bài
a. Cuộc sống của ông Hai ở nơi tản cư
- Ông Hai luôn đau đáu nhớ về quê hương, nghĩ đến những ngày tháng làm việc cùng với anh em.
- Khoe về làng mình: giàu và đẹp, lát đá xanh, có nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre.
- Đến phòng thông tin: đọc báo, nghe tin tức về cuộc kháng chiến.
- Khi nghe đến tin về chiến thắng của ta, “ruột gan ông lão cứ múa vui cả lên” .
=> Tình cảm sâu đậm của ông Hai dành cho quê hương, đất nước và đặc biệt là làng của ông.
b. Diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc
* Khi vừa mới nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:
- Ông sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”.
- Tin tức làng chợ Dầu theo giặc như một tiếng sét giáng xuống đầu ông, nhưng khi trấn tĩnh lại liền tỏ ra nghi ngờ, không tin: “Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi: Liệu có thật không hở bác?...”
- Những người tản cư đã kể rảnh rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin.
- Từ đấy, trong tâm trí của ông chỉ nghĩ về cái tin dữ ấy. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”.
* Khi về đến nhà
- Ông Hai nằm vật ra giường, nhìn lũ con lại thấy tủi thân, nước mắt cứ giàn ra. Bao nhiêu niềm tự hào về làng đều sụp đổ.
- Ông tự hỏi và buồn thay cho số phận những đứa con của mình: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?”
- Ông nắm chặt tay, rít lên: “Chúng bay … mà nhục nhã thế này?”.
=> Ông hai cảm thấy chính bản thân đang mang nỗi nhục của một tên bán nước, cả các con ông rồi cũng sẽ phải mang nỗi nhục ấy.
* Những ngày sau đó:
- Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu.
- Ông chỉ quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài: “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa,ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”.
- Thoáng nghe những tiếng “Tây, Việt gian, cam - nhông… là ông lủi ra một nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”
- Khi nghĩ đến tương lai, ông rơi vào bế tắc, không biết phải đi đâu về đâu: Về làng thì không được, vì về làng lúc này là đồng nghĩa với theo Tây, phản bội kháng chiến. Ở lại thì không xong, vì mụ chủ nhà đã đánh tiếng xua đuổi. Còn đi thi biết đi đâu bởi ai người ta chưa chấp dân làng Chợ Dầu phản bội.
=> Điều này buộc ông phải lựa chọn giữa tình yêu làng và yêu nước.
- Ông hai đã trò chuyện với đứa con trai út, để rồi đưa ra quyết định: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”.
=> Tình yêu nước mãnh liệt của người Việt Nam, họ sẵn sàng vượt lên trên tình cảm cá nhân để hướng đến tình cảm chung của cộng đồng.
c. Niềm vui sướng của ông khi nghe tin cải chính
Thái độ hoàn toàn thay đổi:
- “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”
- “Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy”…
- Về đến nhà thì chia quà cho lũ con rồi sang nhà bác Thứ để đính chính lại cái tin làng chợ Dầu theo giặc.
- “bô bô” khoe với mọi người về cái tin làng ông bị “đốt nhẵn”, nhà ông bị “đốt nhẵn”
=> Niềm vui mừng của ông Hai khi nghe tin cải chính về làng chợ Dầu đã vượt lên trên sự mất mát về của cải khi làng bị giặc đốt sạch. Từ đó, nhà văn Kim Lân đã cho thấy tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc của người nông dân.
(3) Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Làng.
Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 7
I. Mở bài:
Kim Lân là một trong những nhà văn nổi bậc nhất trong đề tài viết về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước cách mạng. Truyện ngắn Làng được viết trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Tác phẩm thể hiện tình yêu làng và lòng yêu nước của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp
II. Thân bài:
Tóm tắt: Câu chuyện kể về ông Hai Thu, người làng Chợ Dầu. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, theo lời kêu gọi của cụ Hồ Chí Minh, toàn dân tham gia kháng chiến, kể cả hình thức tản cư. Do hoàn cảnh neo đơn, ông Hai đã cùng vợ con lên tản cư ở Bắc Ninh dù rất muốn ở lại làng chiến đấu. Ở nơi tản cư, tối nào ông cũng sang nhà bác Thứ bên cạnh để khoe về làng mình rằng làng ông có nhà cửa san sát, đường thôn ngõ xóm sạch sẽ. Ông khoe cái phòng thông tin, cái chòi phát thanh và phong trào kháng chiến của làng, khi kể về làng ông say mê, háo hức lạ thường. Ở đây, ngày nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến, ông vui mừng trước những chiến thắng của quân dân ta. Nhưng rồi một hôm, ở quán nước nọ, ông nghe được câu chuyện của một bà dưới xuôi lên tản cư nói rằng làng Dầu của ông theo giặc. Ông vô cùng đau khổ, xấu hổ, cúi gầm mặt đi thẳng về nhà, suốt ngày chẳng dám đi đâu, chẳng dám nói chuyện với ai, chỉ nơm nớp lo mụ chủ nhà đuổi đi. Buồn khổ quá, ông tâm sự với đứa con út cho khuây khoả. Ông chớm có ý định về làng để xác minh sự thật nhưng lại tự mình phản đối vì nghĩ về làng, làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ bởi làng ông đã theo Tây mất rồi. Thế rồi một hôm có ông chủ tịch dưới xã lên chơi cải chính tin làng ông theo giặc. Ông lão sung sướng mùa tay đi khoe khắp làng rằng nhà ông đã bị đốt nhẵn. Tối hôm ấy, ông lại sang nhà bác Thứ kể về làng mình.
Tình huống truyện: Nhà văn Kim Lân đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống rất gay cấn. Ông Hai vốn rất yêu làng, lúc nào cũng tự hào và khoe khoang về ngôi làng của mình với sự giàu có và tinh thần kháng chiến. Nhưng đột nhiên ông nhận được tin sét đánh mang tai từ những người tản cư - làng ông theo Tây, làm việt gian. Ông vô cùng đau đớn tủi hổ và nhục nhã. Cách tạo tình huống như vậy nhà văn Kim Lân muốn làm nổi bật lòng yêu làng gắn liền với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân Việt Nam thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Phân tích tác phẩm.
1. Nhân vật ông Hai.
a. Tình cảm của ông Hai với làng.
- Ông đau đáu nhớ về quê hương, nghĩ về “những ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng. Rõ ràng, ông Hai là người yêu nước và giàu tinh thần kháng chiến.
- Ông khoe về làng: giàu và đẹp, lát đá xanh, có nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre
- Ông luôn đến phòng thông tin nghe ngóng tình hình về ngôi làng của mình và tin tức về kháng chiến. Lúc nào cũng quan tâm đến tình hình chính trị thế giới, các tin chiến thắng của quân ta Trước những tin chiến thắng của quân ta, ruột gan cứ múa cả lên
→ Ngôn ngữ quần chúng, độc thoại thể hiện niềm tự hào, vui sướng, tin tưởng khi nghe tin về cuộc kháng chiến, đó là niềm vui của một con người biết gắn bó tình cảm của mình với vận mệnh của toàn dân tộc .
b. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng theo giặc.
* Trước khi nghe tin xấu về làng:
- Vui mừng vì tin tức kháng chiến: “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”.
- Tự hào vì quê vẫn sản xuất: “Hừ, đánh nhau thì cứ đánh nhau, cày cấy cứ cày cấy, tản cư cứ tản cư … Hay đáo đề”.
* Khi nghe tin dữ về làng:
- Đột ngột, sững sờ: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tên rân rân”.
- Cố trấn tĩnh, cố không tin, hỏi lại với hy vọng là có sự nhầm lẫn: “một lúc lâu ông mới rặn è è: Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…”.
- Được khẳng định rành rọt, ông đau đớn, xấu hổ như chính mình mắc lỗi: “Cúi gằm mặt xuống mà đi về”.
* Sau khi nghe tin dữ:
- Tủi thân cho mình và cho các con: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?”
- Ông kiểm điểm lại tin nghe được, càng thêm thất vọng và đau đớn: “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!”
- Cái tin dữ xâm chiếm, nó trở thành nỗi ám ảnh day dứt trong ông: lúc nào cũng tưởng người ta đang để ý, người ta đang bàn tán “cái chuyện ấy”. Ông tránh né cả các cuộc trò chuyện với mọi người.
→ Trong ông Hai có nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sợ hãi thường xuyên cùng với nỗi đau xót, tủi hổ trước cái tin làng mình theo giặc.
* Khi bị đầy vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng: Mụ chủ nhà đuổi đi.
- Mâu thuẫn, xung đột nội tâm: Về làng là quay lại làm nô lệ, phản bội cuộc kháng chiến của dân tộc; đi nơi khác thì không ai chứa chấp, bi xua đuổi.
- Ông dứt khoác: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.
- Quyết định như thế nhưng vẫn không dứt bỏ tình cảm với làng quê, vì thế mà càng đau xót, tủi hổ.
- Trút nỗi lòng vào lời thủ thỉ tâm sự với con. Khẳng định tình yêu làng Chợ Dầu, tấm lòng chung thủy với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ → Tình cảm sâu nặng, bền vững mà thiêng liêng.
→ Tình yêu làng của của ông Hai thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến.
* Khi nghe tin làng theo giặc được cải chính:
Thái độ ông Hai thay đổi hẳn:
- “cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”
- “mồm bỏm bẻm nhai trầu, mắt hấp háy”.
- “Chạy đi khoe khắp nơi về làng của mình”.
→ Vui mừng tột độ, tự hào, hãnh diện khi làng không theo giặc, cũng đồng thời thấy được tình yêu làng, yêu nước của người nông dân như ông Hai.
2. Đặc sắc nghệ thuật.
- Nghệ thuật tạo dựng tình huống làm bộc lộ chiều sâu tâm trạng nhân vật:
- Đặt nhân vật vào tình huống éo le, bất ngờ: Ông Hai luôn yêu và tự hào về làng của mình, nay nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.
- Tình huống khiến diễn biến tâm trạng nhân vật thay đổi mạnh mẽ, thử thách lòng yêu làng và yêu nước của nhân vật ông Hai.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật chủ yếu qua việc miêu tả nội tâm:
- Tâm trạng ông Hai biến chuyển từ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc tới khi nghe tin cải chính diễn ra phức tạp, tinh tế.
- Nhiều đoạn miêu tả tâm lí rất sâu sắc (ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc: da mặt tê rân rân, cổ nghẹn ắng lại, lúc ông Hai lựa chọn giữa tình yêu nước với tình yêu làng).
- Gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật chứng tỏ Kim Lân am hiểu về người nông dân và thế giới tinh thần của họ.
- Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ: ngôn ngữ truyện đặc sắc nhất là ngôn ngữ nhân vật ông Hai.
- Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân.
- Lời nói trần thuật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu, truyện được trần thuật chủ yếu theo lời nhân vật ông Hai (hình thức trần thuật ngôi thứ 3).
- Ngôn ngữ nhân vật của ông Hai vừa mang nét chung của người nông dân nhưng cũng mang điểm riêng biệt đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động.
- Giọng điệu trần thuật tự nhiên thân mật đôi khi dí dỏm của nhân vật.
- Kể chuyện ở ngôi thứ 3 (tác giả) giúp miêu tả nội tâm nhân vật ông Hai thêm chân thực, sâu sắc, thể hiện sự đấu tranh nội tâm, nỗi đau đớn, dày vò của ông khi ngôi làng mà mình đã sinh ra, lớn lên lại mang danh bàn nước, cái tội ghê gớm nhất, đáng khinh bỉ nhất lúc bấy giờ.
III. Kết bài:
Nhà văn Kim Lân đã rất thành công trong việc xây dựng tình huống truyện và trong việc miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật. Đoạn trích thể hiện tình yêu Làng và lòng yêu nước sâu đậm của người nông dân thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tác giả đã rất thành công trong việc tạo dựng tình huống thắt nút và cởi nút câu chuyện rất tự nhiên và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật qua hành động suy nghĩ và lời nói, từ đó tạo ra được một tác phẩm hoàn hảo.
Dàn ý phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 8
I. Mở bài
- Giới thiệu Kim Lân: cây bút sở trường, nhiều thành công về truyện ngắn. Từng sống, hiểu và yêu tha thiết làng quê, ông sáng tác thành công về đề tài con người, hiện thực làng quê ... Tiêu biểu là truyện ngắn "Làng" .
- Nhà văn xây dựng thành công nhân vật ông Hai - nhân vật chính của truyện, mang nét tính cách, tâm lí yêu làng, yêu quê hương của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp... Nhân vật được bộc lộ chân thực, sinh động qua tình huống điển hình.
II. Thân bài
1. Khái quát tác phẩm:
- Hoàn cảnh ra đời: “Làng” được viết trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, đăng lần đầu trên báo Văn nghệ năm 1948.
- Tóm tắt nội dung tác phẩm.
2. Nội dung chính:
a. Phần đầu truyện dành viết về tình yêu làng rất đặc biệt, rất ông Hai
- Ông Hai khoe không biết chán vế làng ông: Khoe làng có nhiều nhà ngói, có đường lát gạch sạch sẽ, có phòng thông tin rộng rãi, có lúa sạch đẹp nhất vùng ...
- Đó là biểu hiện tâm lý: Tự hào, yêu sâu sắc làng quê, xứ sở của người nông dân Việt Nam.
b. Để nhân vật bộc lộ sâu sắc tính cách, tâm lý, nhà văn đã tạo một tình huống gay cấn. Đó là tình huống có người báo tin làng ông theo giặc, làm Việt gian.
c. Tình huống ấy đã bộc lộ sâu sắc tình yêu làng của ông Hai (ý chính):
- Ban đầu mới nghe tin, ông đau đớn: “ Cổ họng ông nghẹn ắng hẳn lại… giọng lạc hẳn đi” ( trang 165). Nhà văn đã miêu tả tâm trạng của ông hai gián tiếp qua tả nét mặt và giọng nói. Giong nói “ lạc hẳn đi”, ông không tin vào điều người đàn bà tản cư nói. Ông hỏi để xác minh lại “ Liệu có thật không hở bác. Hay là chỉ lại…”
- Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường vừa tủi thân, vừa thấy nhục nhã: “ Nhìn lũ con…bằng ấy tuổi đầu” (trang 166). Nghệ thuật độc thoại nội tâm diễn tả cụ thể những câu hỏi giằng xé trong đầu ông Hai. Nếu không yêu làng đến thế thì ông không đau đớn, tủi nhục đến vậy. Mụ chủ nhà còn có ý định “ mời” gia đình ông đi nơi khác. Ông đau khổ không phải bị đuổi đi vì lí do bị đuổi.
- Từ đau đớn, nhục nhã, tâm trạng ông Hai chuyển sang lo lắng, sợ hãi: “ Đã ba bốn hôm nay… không dám sang…Một đám đông túm lại… nín thít.” (trang 168). Ông Hai cảm thấy như mình mang nỗi nhục của tên bán nước Việt gian theo Tây. Từ chỗ một con người sống cởi mở, niềm nở, ông trở thành người khép nép, lo lắng. Đã có lúc, trước đấy, nhớ làng ông có ý định quay trở về nhưng bây giờ thì “ Về làm gì cái làng ấy nữa, chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, “ Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Người nông dân trong văn của Kim Lân là như thế, yêu ghét rõ ràng, rạch ròi.
- Không biết chia sẻ cùng ai, ông đành trò chuyện với con út, trút nỗi lòng mình với đứa con ngây thơ: “ Thầy hỏi con nhé…Cụ Hồ con nhỉ…” (trang 170). Lời nói của ông với đứa con trai thực chất là lời bộc bạch, tự giãi bày lòng mình. Hình thức đối thoại nhưng mang tính chất độc thoại thể hiện lòng yêu sâu nặng của ông với làng, tấm lòng chung thủy của ông với cách mạng, với kháng chiến, với Cụ Hồ.
- Từ đau đớn, nhục nhã, sợ hãi cho nên ông Hai sung sướng khi nghe tin làng bị giặc đốt, giặc phá, ông lại đi khoe cái tin ấy. Ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người: “Tây nó đốt nhà tôi. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch…Còn phải để cho người khác biết chứ. Ai ai cũng mừng cho ông lão”( trang 171). Nghe ra thì tưởng là phi lí, yêu làng mà làng bị giặc đốt lại sung sướng. Phi lí nhưng hợp lí vì với ông Hai đó là bằng chứng hùng hồn nhất để chứng minh làng chợ Dầu không theo tây. Nỗi vui sướng, hồn nhiên trào ra không kìm nén được.
- Tóm lại, Kim Lân đã đưa vào tác phẩm một nhân vật sống động mang vẻ đẹp riêng về người nông dân những năm đầu kháng chiến chống Pháp: yêu làng, yêu nước sâu sắc và quyết tâm đi theo kháng chiến, theo Cụ Hồ. Nhà văn đã diễn tả chân thực, cụ thể, sinh động diễn biến tâm trạng của nhân vật thể hiện sự am hiểu, gắn bó của Kim Lân với người nông dân - những con người suốt đời gắn liền với đồng ruộng, chất phác, hồn nhiên, mộc mạc.
3. Nghệ thuật đặc sắc
- Biết tạo tình huống "thử thách "để bộc lộ chiều sâu tâm trạng nhân vật.
- Nhà văn đã thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau: lúc trực tiếp bằng bút pháp độc thoại, độc thoại nội tâm, lúc gián tiếp qua nét mặt, giọng nói.
- Ngôn ngữ nhân vật mang đậm chất khẩu ngữ, sinh động, giàu giá trị biểu cảm.
III. Kết bài:
Kim Lân viết không nhiều nhưng vẫn là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Kim lân đã góp tiếng nói riêng vào đề tài nông dân và nông thôn. Bằng nghệ thuật đặc sắc, nhà văn đã miêu tả thành công tình yêu làng, yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân, một lòng thủy chung với cách mạng.