Dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (7 Mẫu) Trích Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn
Lập dàn ý Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ chi tiết, đầy đủ những ý quan trọng, giúp các em có thêm nhiều ý tưởng mới để viết bài văn Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ thật hay, thật sâu sắc.
Trích đoạn "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc với những đau khổ, mất mát của con người trong thời buổi loạn li. Đặc biệt là nỗi đau của những người vợ tiễn chồng ra trận. Mời các em cùng tham khảo bài viết dưới đây của Download.vn:
Dàn ý Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ chi tiết
- Dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ngắn gọn
- Dàn ý Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ phân tích
- Dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
- Dàn ý cảm nhận Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
- Dàn ý Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
- Lập dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
- Dàn ý Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ chi tiết
Dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ngắn gọn
1. Mở bài
* Giới thiệu tác giả và tác phẩm, khái quát nội dung
- Đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” được trích trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn
- Bài thơ đã thể hiện một cách sâu sắc và thấm thía nỗi khổ đau, tình cảnh cô đơn lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến
2. Thân bài
- Phân tích nỗi cô đơn của người chinh phụ
- Phân tích nỗi buồn khổ, sầu muộn
- Phân tích nỗi nhớ thương chồng
- Khao khát của người chinh phụ
3. Kết bài
Đánh giá và khẳng định giá trị của đoạn trích: Những câu thơ trong “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” như chứa chất nỗi đau, nỗi nhớ và khao khát hạnh đôi lứa, thể hiện sâu sắc và thấm thía nhất chủ đề của tác phẩm.
Dàn ý Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ phân tích
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm Chinh phụ ngâm và trích đoạn Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
2. Thân bài
a. Phân tích nỗi cô đơn, sầu tủi của người chinh phụ
- “Dạo hiên vắng”: Trước hiên nhà, những bước đi chậm rãi, nặng nề.
- “Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen” Hành động buông rèm xuống, kéo rèm lên lặp lại trong vô thức diễn tả nỗi chán chường, tô đậm thêm nỗi cô đơn trong khuê các.
- “Ngoài rèm thước chẳng mách tin”: Trông chờ một tiếng lành từ chim thước từ xa nhưng chẳng có, nàng đành ngậm ngùi bên chiếc đèn khuya.
- “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng” Tìm đến đèn để tâm giao cho vơi nỗi ưu sầu, mà đèn nào có biết, nào có thấu được tâm can kẻ cô đơn.
- Người chinh phụ buồn bã trong khuê phòng với ánh đèn dầu hiu hắt mà xót thương cho số phận mình, tủi hổ cho cảnh lẻ loi, đơn chiếc vì chia ly của mình.
- Nỗi bi thiết của lòng nàng cất lên trong từng tiếng thơ ai oán, vừa như trách móc, vừa như xót xa cho thân phận.
- Đèn dần tàn, thời gian vẫn vậy cứ trôi đi, một mình, một bóng, gặm nhấm nỗi cô độc, sầu tủi, nỗi chán chường vì lẻ loi tận cùng “Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”.
- Lòng người buồn tủi, nỗi sầu thương nhuốm lên cả vị thời gian, màu không gian:
- Tiếng gà "eo óc" đếm thời gian trong đêm lạnh.
- Bóng hòe "phất phơ rủ bóng" ngẩn ngơ bốn bề.
- Thiên nhiên có thanh, có sắc mà chẳng có lấy chút niềm vui dù là nhỏ bé
- Mỗi khắc thời gian trôi qua đều nặng nề, khó khăn tựa như một năm dài.
- Trong nỗi buồn tủi, sầu muộn, cô độc đến cùng cực ấy, người chinh phụ cố vực dậy tinh thần mình bằng việc tìm đến những thú vui đời thường. Nhưng trớ trêu thay, mọi thứ dường như đều trở nên gượng gạo, bất lực trước tâm trạng chinh phụ.
b. Phân tích nỗi nhớ thương chồng tha thiết của người chinh phụ.
- Càng cô đơn, tuyệt vọng, nỗi nhung nhớ lại càng dâng trào, mãnh liệt.
- Người chinh phụ nhớ thương chồng tha thiết nhưng đành bất lực vì khoảng cách quá xa xôi.
- "Non Yên" một hình ảnh ẩn dụ cho sự xa xôi, cách trở của người chinh phụ và kẻ chinh phụ.
- Vì nỗi nhớ thương da diết, không biết làm gì hơn, nàng đành gửi nỗi nhớ theo gió đông đến "Non Yên".
- Từ láy "thăm thẳm", "đau đáu" kết hợp với cụm danh từ "đường lên bằng trời" đã đặc tả nỗi nhớ khôn nguôi, mênh mông và cao rộng đến tận cùng trong người chinh phụ.
3. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp và giá trị của đoạn trích.
Dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn thị Điểm: tên tuổi, con người, sự nghiệp văn chương
- Giới thiệu tác phẩm Chinh phụ ngâm (hoàn cảnh sáng tác) và đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (vị trí, nội dung đoạn trích).
II. Thân bài
1. 16 câu đầu: Tình cảm cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
a. Hành động lặp đi lặp lại một cách nhàm chán, vô vị.
- “Thầm reo từng bước”: Bước chân lặng lẽ dạo trên hiên vắng.
- “Rủ thác đòi phen”: Vào trong phòng cuốn rèm, buông rèm
→ Hành động lặp lại đi lặp lại một cách vô thức, thể hiện sự bần thần, bất định của người chinh phụ
- Chữ “vắng, thưa”: Không chỉ gợi sự vắng lặng của không gian mà còn cho thấy nỗi trống vắng trong lòng người người chinh phụ
b. Thao thức ngóng trông tin chồng
- Ban ngày:
- Người chinh phụ gửi niềm hi vọng vào tiếng chim thước – loài chim khách báo tin lành.
- Nhưng thực tế “thước chẳng mách tin”: Tin tức chồng vẫn bặt vô âm tín.
- Ban đêm:
- Người chinh phụ thao thức cùng ngọn đèn hi vọng đèn biết tin tức về chồng, san xẻ nỗi lòng cùng nàng.
- Thực tế: “Đèn chẳng biết” “lòng thiếp riêng bi thiết” Câu thơ có hình thức đặc biệt khẳng định rồi lại phủ định, ngọn đèn có biết cũng như không vì nó chỉ là vật vô tri không thể san sẻ nỗi lòng cùng người chinh phụ.
- So sánh với bài ca dao “khăn thương nhớ ai”, bài ca dao cũng có xuất hiện hình ảnh ngọn đèn. Nếu “đèn” trong bài ca dao là tri âm tri kỉ với người phụ nữ thì ở đây ngọn “đèn” lay lắt lại cứa sâu thêm nỗi đau trong lòng người.
- Hình ảnh so sánh “hoa đèn” và “bóng người”.
- “Hoa đèn” đầu bấc ngọn đèn, thực tế là than. Cũng giống như ngọn đèn cháy hết mình để rồi chỉ con hoa đèn tàn lụi, người phụ nữ đau đáu hết lòng chờ chồng nhưng cuối cùng nhận lại sự cô đơn, trống trải.
- Liên hệ với nỗi cô đơn của Thúy Kiều sau khi từ biệt Thúc Sinh trở về với chiếc bóng năm canh:
“Người về chiếc bóng năm canh/Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”
c. Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về ngoại cảnh.
- “Gà gáy”, “sương”, “hòe”: Là những hình ảnh gắn với cuộc sống thôn quê bình dị, yên ả
- Từ láy “eo óc, phất phơ”: Cực tả vẻ hoang vu, ớn lạnh đến ghê rợn của cảnh vật.
→ Dưới con mắt trống trải cô đơn cả người chinh phụ, những cảnh vật vốn gắn với cuộc sống yên bình, êm ả nay trở nên khác thường, hoang vu, ớn lạnh. Đó là cách nói tả cảnh để ngụ tình.
d. Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về thời gian.
- “Khắc giờ đằng đẵng”, “mối sầu dằng dặc”: Thể hiện sự dàn trải của nỗi nhớ miên man không dứt.
- Biện pháp so sánh kết hợp với các từ láy giàu giá trị gợi hình gợi cảm “dằng dặc, đằng đẵng” cho thấy sự cảm nhận khác thường về thời gian, mỗi phút mỗi giờ ngắn ngủi trôi qua mà nặng nề như một năm dài, thời gian càng dài mối sầu càng nặng nề hơn.
→ Câu thơ cực tả nỗi cô đơn tột cùng tột độ trong lòng người chinh phụ
e. Hoạt động gắng gượng duy trì nếp sống hằng ngày.
- Điệp từ “gượng”: nhấn mạnh sự cố gắng gò ép mình của người chinh phụ
- Mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm:
- Đốt hương tìm sự thanh thản nhưng tình cảm lại mê man theo những suy nghĩ viển vông, khắc khoải, những dự cảm chẳng lành
- Soi gương nhưng chỉ thấy hiện lên đó gương mặt đau khổ đầm đìa nước mắt.
- Gượng gảy đàn sắt đàn cầm để ôn lại kỉ niệm vợ chồng nhưng lại lo lắng có điềm gở. Sự lo lắng không chỉ cho thấy nỗi cô đơn mà còn cho thấy niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.
⇒ Tiểu kết:
- Nội dung: Khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi, trống vắng của người phụ nữ, ẩn sau đó thái độ cảm thông, chia sẻ của tác giả đối với nỗi đau khổ của con người.
- Nghệ thuật:
- Giọng thơ trầm buồn, khắc khoải, da diết, trầm lắng
- Khắc họa nội tâm nhân vật tài tình, tinh tế thông qua hành động nhân vật, yếu tố ngoại cảnh, độc thoại nội tâm
- Các biện pháp tu từ: So sánh, điệp từ, từ láy.
2. Nỗi nhớ nhung của người chinh phụ.
a. Ước muốn của người chinh phụ.
- “Gió đông”: Gió mùa xuân mang theo hơi ấm và sự sống
- “Non Yên”: Điển tích chỉ nơi biên ải xa xôi
- “Nghìn vàng”: Hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng của người chinh phụ (buồn tủi, cô đơn, lo lắng, trống vắng, hi vọng rồi lại thất vọng)
→ Với các hình ảnh ẩn dụ và điển tích đã cho thấy ước muốn của người chinh phụ gửi gắm niềm hi vọng, thương nhớ vào ngọn gió xuân mang đến nơi chiến trường xa xôi để người chinh phu thấu hiểu và trở về cùng nàng.
b. Nỗi nhớ của người chinh phụ
- Thủ pháp điệp liên hoàn “Non yên – non yên, trời – trời”: Nhấn mạnh khoảng cách xa xôi, trắc trở không gì có thể khỏa lấp, đồng thời cực tả nỗi nhớ vời vợi , đau đáu trong lòng người chinh phụ
- Từ láy “thăm thẳm, đau đáu”: Cực tả cung bậc của nỗi nhớ, thẳm thẳm là nỗi nhớ sâu, dai dẳng, triền miên, đáu đáu là nỗi nhớ gắn với nỗi đau, nỗi sầu.
→ Câu thơ ghi lại một cách tinh tế, cảm động sắc thái nỗi nhớ, nỗi nhớ mỗi lúc một tăng tiến, dồn nén trở thành nỗi đau xót xa.
→ Sự tinh tế, nhạy cảm, đồng điệu của tác giả.
c. Mối quan hệ giữa ngoại cảnh và tâm cảnh.
- “Cảnh buồn”, “người thiết tha lòng”: Cảnh và người đều gặp nhau ở nỗi buồn và niềm đau
- Cảnh vốn là vật vô tri nhưng tâm trạng của con người đã nhuốm sầu cảnh vật.
→ Thủ pháp tả cảnh ngụ tình, người chinh phụ đã hướng nỗi buồn ra ngoài cảnh vật khiến nó cũng trở nên não nề.
⇒ Tiểu kết.
- Nội dung: Khắc họa nỗi buồn, nỗi đau, nỗi nhớ của người chinh phụ, ẩn sau đó là sự đồng cảm, trân trọng của tác giả đối với số phận và phẩm hạnh người phụ nữ
- Nghệ thuật:
- Sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp liên hoàn, từ láy
- Thủ pháp tả cảnh ngụ tình
- Giọng điệu da diết, buồn thương
III. Kết bài
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
- Liên hệ với số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải xa chồng vì chiến tranh phi nghĩa: Vũ Nương. Qua đó, phê phán chiến tranh phi nghĩa tước đi hạnh phúc người phụ nữ.
Xem thêm: Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Dàn ý cảm nhận Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Tác giả: Đặng Trần Côn sinh ra Hà nội.
- Tác phẩm: Tình cảnh lẻ loi người chinh phụ viết về cảnh và tâm trạng người phụ nữ phải sống trong cô đơn, buồn khổ, trong thời gian đợi chồng đi đánh giặc trở về, không có tin tức.
2. Thân bài
- Phân tích:
Tám câu đầu: Thời gian chờ đợi mỏi mòn.
- Hai câu thơ đầu: Hành động vô thức của người chinh phụ, hành động lặp đi lặp lại tâm trí đã để nơi biên ải xa nên tất cả việc làm đều không kiểm soát.
- Hai câu tiếp: Sự ngóng trông chim khách báo tin lành những biệt vô âm tín.
- Hình ảnh ngọn đèn: Nói lên thời gian trôi nhanh, người phụ nữ cô đơn một mình đối diện với ngọn đèn vô tri, vô giác lòng mang đầy nỗi sầu, sầu thương về niềm hạnh phúc dở dang.
- Gà eo óc: Tiếng gà âm thanh duy nhất trong đêm tối nhưng lại nhanh chóng im lặng.
- Hòe phất phơ: Gợi cảm giác cô quạnh, lạnh lẽo và sự cô đơn của người chinh phụ.
- “Khắc giờ” mà cứ như một năm chờ đợi, mối sầu đã đong đầy thành biển khơi vô tâm.
- Người thiếu phụ đợi chờ chồng trong mỏi mòn, lo lắng trong sự bồn chồn không yên lo cho sự bình an của chồng.
- Sự gắng gượng thoát khỏi nỗi bủa vây của sự cô đơn:
- gượng đốt hương -> mê mải về quá khứ
- gượng soi gương -> nước mắt tuôn trào
- gảy đàn -> lo cho đứt dây đàn báo điềm chẳng lành.
- Người phụ nữ gắng gượng bản thân thoát nỗi cô đơn, nhưng càng bị bủa vây nỗi cô đơn đó, càng đau khổ tuyệt vọng.
* Tám câu cuối: Sự thương nhớ của người thiếu phụ
- Gió đông: Gió mùa xuân
- Nghìn vàng: lòng thương nhớ, trân trọng quý như vàng.
- Núi Yên: nơi chiến trận ngoài biên ải xa xôi.--> Người thiếu phụ gửi nỗi nhớ vào gió đến chồng của mình
- Núi Yên ở đâu nàng cũng không biết, trời thăm thẳm xa vời không thấu cho nỗi niềm của nàng
- Cảnh buồn: sương, cành cây, mưa phùn đượm nỗi buồn người chinh phụ. Thiết tha là nỗi buồn khôn nguôi, không lối thoát, dai dẳng, dày sé con tim.
3. Kết bài
- Bài thơ hay
- Cung bậc và sắc thái khác nhau sự cô đơn, buồn khổ, khát khao sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
Dàn ý Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
1. Mở bài
Dẫn dắt và giới thiệu bài thơ.
Khoảng đầu những năm 40 của thế kỉ XVIII nước ta rơi vào tình trạng nhiễu loạn, thuế khóa nặng nề, loạn lạc khắp nơi. Khởi nghĩa nông dân bùng lên mạnh mẽ, chúa Trịnh tiến hành nhiều cuộc đánh để dẹp loạn nhưng càng đẹp thì càng loạn. Nhiều gia đình rơi vào hoàn cảnh li tán: vợ chồng, cha con chia lìa. Đó là lí do mà Đặng Trần Côn viết " Chinh phụ ngâm" trên nền những cuộc chiến trang phong kiến phi nghĩa- một tác phẩm mang giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc, mới mẻ.
2. Thân bài
a) Câu 1 đến câu 16: nỗi cô đơn, sầu muộn của người chinh phụ
- Sự cô đơn
- Tâm trạng của người chinh phụ khi đối mặt với thực tại. Hai câu đầu đã tái hiện hình ảnh người chinh phụ một mình ở nhà hết đi ra hiện lại vào nhà, hết đứng lại ngồi, cuốn rèm lên trông tin tức rồi lại rủ rèm xuống nhiều lần. Những việc làm, những cử chỉ lặp đi lặp lại như không mục đích, người chinh phụ làm mà chẳng để ý đến hành động của mình. Bề ngoài đó là hình ảnh của một cuộc sống nhàn hạ, sung túc, không chút khổ cực nhưng chuỗi hành động của người chinh phụ như chứng tỏ: với người chinh phụ, thời gian trôi đi một cách nhàm chán, tù túng, không có việc gì khiến nàng vui, tâm trí nàng để hết ngoài kia trong nỗi khắc khoải chờ đợi đến khôn nguôi.
- Thông tin thước- loài chim báo hiệu tin vui nhưng càng ngóng thì tiếng chim càng vô vọng, nàng trách chim thước chẳng mách tin cũng là sự xác nhận , sự thất vọng trong cảnh mỏi mòn, bi quan.
"Ngoài rèm thước chẳng mách tin"
- Người chinh phụ lại gửi tâm sự, niềm hi vọng vào ngọn đèn nơi khuê phòng với ý nghĩ may ra ngọn đèn kia biết tâm sự, chia sẻ những nỗi niềm thầm kín nhưng ngay lập tức nàng lại tự dập tắt hi vọng đó với ý nghĩ: "Đèn có biết dường bằng chẳng biết?". Ngọn đèn chỉ là cái cớ độc thoại nội tâm
- "Đèn có biết" vì nó đã thức cùng nàng những đêm thâu, những đêm trằn trọc, cô đơn, bồn chồn trong nỗi nhớ thương. Trong cảnh thương tiếc đèn cũng chẳng biết vì đó chỉ là một vật vô tri. Từ "chẳng" lặp lại nhiều lần có khi phủ định sự tồn tại của chim thước để nói lên nỗi vô vọng trong sự nhớ thương, khi để xác định một thực tại phũ phàng ngay cả một người bạn, một nơi trút bầu tâm sự cũng không có và có khi để diễn tả một cách thấm thía nỗi tuyệt vọng vì mất phương hướng:
"Buồn rầu nói chẳng nên lời”
Ba lần chữ "chẳng" xuất hiện là ba lần nhân vật trữ tình rơi vào bi kịch của sự thất vọng, vô vọng:
"Hoa đèn kia với bóng người khá thương"
"Hoa đèn" và "bóng người"- hai hình ảnh gợi cảm giác về sự lụi tàn, héo hon, mòn mỏi trong cánh đài; là những tín hiệu thẩm mĩ khắc sâu sự cô đơn, buồn tủi.
Nàng thất vọng đến mức phải thốt lên:
"Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi"
- Sầu muộn triền miên
Ngoại cảnh: tuyệt vọng nơi khuê phòng, người chinh phụ hướng ra bên ngoài. Trước hết là để nghe âm thanh tiếng gà. Tiếng gà cứ vang lên cùng hồi trống điểm canh nhưng thực chất là lắng nghe bước đi của thời gian, là sự vò võ của người chinh phụ. Nhìn bóng hòe lơ đãng hay trạng thái tâm lí của người chinh phụ ngồi đếm thời gian trôi đi một cách nặng nề.
Trong cảm giác nặng nề đó, người chinh phụ có những suy ngẫm về thời gian thật đặc biệt:
"Khắc giờ đằng đẵng như niên
"Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”
Mối sầu muộn người chinh phụ đang phải gồng gánh nặng trĩu, miên man và kéo dài.
- Gắng gượng vượt qua sự bủa vây của cảm giác cô đơn
Bằng những hành động như đốt hương để căn phòng thêm ấm , xua đi cái lạnh; soi gương để sang sửa nhan sắc; tìm đến tiếng đàn để gợi vui nhưng thật tội nghiệp thay, những hành động đó đều diễn ra gượng gạo, miễn cưỡng.
Người chinh phụ càng cố gắng vùng vẫy thoát khỏi nỗi bấn loạn trong lòng nhưng không thoát nổi, nàng đành ngẩn ngơ trở về thực tại
Sự đồng cảm sâu sắc, sự chia sẻ chân thành của tác giả.
b) Câu 17 đến câu 28: niềm mong ước gửi tấm lòng thương nhớ của người chinh phụ đến người chồng nơi biên ải
- Nỗi nhớ thương
Sau giây phút tuyệt vọng, tâm trạng của người chinh phụ dường như hửng sáng trong nỗi nhớ thương người chồng da diết:
"Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi tới non Yên"
Hai câu thơ bộc lộ mong muốn của người chinh phụ là muốn gửi tấm lòng nghìn vàng thương nhớ đến người chồng nơi biên ải xa xôi để mong chồng thấu hiểu và được đoàn tụ sum vầy.
"Non Yên dù chẳng tới miền
...
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu"
Không gian được mở ra nhấn mạnh vào khoảng cách và sự chia cắt lớn rộng. Không gian cứ miên man vô tận, là nỗi nhớ nhung vô hạn cũng là sự vô vọng đến vô cùng.
Nỗi nhớ chồng càng được tô đậm:
"Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời"
"Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
- Nỗi sầu tủi
Người chinh phụ từ cõi nhớ trở về với cõi thực.
Câu thơ "cảnh buồn người thiết tha lòng" là sự khái quát về mối quan hệ tình cảnh và tâm cảnh, mạch thơ từ tình chuyển sang cảnh.
Bức tranh ấy có sương có mưa có tuyết có gió- ấn tượng về một không gian rộng lớn, lạnh lẽo, hoang vắng, rợn ngợp trong buổi đêm thanh tĩnh. Từ đó mà người chinh phụ đã thấm thía sự tàn phá khốc liệt của ngoại cảnh, tình cảnh đến tâm can của mình.
c) Còn lại: tâm trạng buồn thương, bừng lên khát vọng hạnh phúc, đoàn tụ lứa đôi
- Những câu thơ rất hay, giàu giá trị thẩm mĩ để nâng đỡ những khoảnh khắc đẹp của tâm hồn.
Thiên nhiên đẹp, thi vị, tình tứ, lãng mạn, có sự vui vầy, luyến ái. Tất cả diễn tả sự cồn cào, cháy bỏng khát vọng hạnh phúc, đoàn tụ, sum vầy. - Cuối cùng là câu thơ trĩu nặng, giọng trùng xuống nặng như một tiếng thở dài não ruột.
3. Kết bài
Nêu cảm nghĩ của bản thân.
Chiến tranh đã mang người chồng của nàng đến nơi xa không biết ngày về. Hình ảnh người vợ tựa cửa héo hon chờ chồng, đau đớn trong cô đơn, khắc khoải đã góp phần tố cáo chiến tranh đồng thời đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người.
Lập dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
2. Thân bài:
a. Tám câu thơ đầu:
- Tâm trạng cô đơn, lẻ loi bộc lộ qua những hành động có tính lặp đi lặp lại, nhàm chán, vô vị.
- “dạo hiên vắng thầm gieo từng bước”, những từ “thầm”, “vắng”, lại càng làm nổi bật nỗi đìu hiu cô đơn của người thiếu phụ chốn khuê phòng.
- “rèm thưa rủ thác đòi phen” tấm màng mỏng hết buông xuống lại được cuốn lên, kéo theo tầm mắt trông ngóng xa xăm của người phụ nữ giữa căn nhà lạnh lẽo.
- Gửi gắm hy vọng mong manh của mình vào loài chim thước, một loài chim chuyên báo hỷ sự, đôi mắt ngóng trông đến mỏi mòn mà vẫn chịu cảnh “Ngoài rèm thước chẳng mách tin”.
- Nỗi buồn bã, cô đơn của người chinh phụ thông qua ngoại cảnh xung quanh.
- Chỉ còn mỗi ngọn đèn leo lắt làm bạn, hỏi đèn rằng có biết chăng nỗi sầu lẻ bóng của mình, rồi lại như hờn như trách mà than thở “đèn có biết dường bằng chẳng biết”.
- Người chinh phụ tự bày tỏ nỗi lòng của mình “Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”, không còn cố ém nhẹm, giấu đi những nỗi niềm sầu khổ, mà bộc lộc một cách rõ nét nỗi “buồn rầu” đến chẳng thể cất thành lời.
b. Bốn câu thơ tiếp:
- Cảnh buồn thương, hiu quạnh của người chinh phụ càng trở nên sâu sắc trong những âm thanh và cảnh sắc thê lương.
- Tiếng gà gáy “eo óc” diễn tả rất đạt cái cảnh buồn vắng, quạnh quẽ trong đêm khuya, người thiếu phụ vì cô đơn, vì nhớ thương chồng mà trằn trọc không ngủ được, nghe tiếng gà gáy từ những canh đầu.
- Cảnh “hòe phất phơ” yếu đuối, che phủ suốt bốn bên căn nhà, càng làm cảnh sắc thêm phần ảm đạm, cô liêu.
- “khắc giờ đằng đẵng như niên” nỗi nhớ thương sâu sắc, trông ngóng mòn mỏi khiến người thiếu phụ cảm nhận một giờ dài tựa một năm.
- Nỗi buồn “mối sầu” còn được tác giả tinh tế diễn tả bằng một lượng từ “dằng dặc” chỉ sự dài vô tận không dứt.
c. Bốn câu thơ tiếp: “Hương gượng đốt…loan ngại chùng”:
- Người chinh phụ đã cố vực dậy tinh thần, tự tìm cho mình những thú vui khuây khỏa, nhằm vơi đi phần nào nỗi nhớ thương, sự trống trải trong lòng.
- Cố “gượng” đốt hương, mà nghe mùi thơm hồn càng “mê mải” mệt nhọc.
- Ngắm dung nhan tiều tụy vì thương nhớ mà nước mắt tuôn trào thương cho phận hồng nhan.
- Gảy đàn sợ “dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng” vì lo sợ điềm xấu, sợ cảnh sinh ly tử biệt, đớn đau.
=> Mọi sự cố gắng, nỗ lực vượt ra khỏi cảnh sầu bi, chán chường của người chinh phụ đều trở nên vô nghĩa, không những không vực dậy được tinh thần mà còn khiến cho nỗi khổ sở, xót xa càng thêm sâu sắc.
d. Những câu thơ cuối:
- Nỗi cô đơn, lẻ loi, buồn tủi của người chinh phụ chuyển thành nỗi nhớ thương khôn nguôi dành cho người chồng ngoài chiến trận.
- Bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ thương không dứt của người vợ dành cho chồng mình trong cảnh chiến chinh loạn loạn lạc, là lòng khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt.
3. Kết bài
Đánh giá và khẳng định giá trị của đoạn trích: Những câu thơ trong "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" như chứa chất nỗi đau, nỗi nhớ và khao khát hạnh đôi lứa, thể hiện sâu sắc và thấm thía nhất chủ đề của tác phẩm.
Dàn ý Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ chi tiết
1. Mở Bài
Chinh phụ ngâm là khúc ca ai oán của người chinh phụ khi phải mỏi mòn ngóng trông người trai tiền tuyến. Với nhiều nỗi niềm, tâm trạng cô đơn, tủi hờn, đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã lột tả được phần nào tâm trạng của người vợ chờ chồng. Tác phẩm đã nói lên sự chán ghét chiến tranh phi nghĩa, đồng thời thể hiện sự khát khao được yêu thương, được hạnh phúc lứa đôi. Bản dịch đã thể hiện tài năng của tác giả trong việc thể hiện những trạng thái tâm lí vô cùng tinh tế và phức tạp của người vợ nhớ chồng.
2. Thân Bài
Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh quyền quý, nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập công danh nơi yên ngựa và trở về trong cảnh vinh hoa. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn và bế tắc cùng cực với một tâm trạng đượm buồn, dai dẳng và da diết. Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã thành công thể hiện tâm trạng cô đơn ấy của người thiếu nữ có chồng chinh chiến nơi xa.
Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn khi ra đời đã nhận được sự đồng cảm sâu sắc của rất nhiều người, nhất là những nho sĩ và thiếu phụ đồng tâm trạng. Tác phẩm có nhiều bản dịch, tuy nhiên, bản dịch được cho là của Đoàn Thị Điểm là bản dịch thành công hơn cả. Hình ảnh nổi bật xuyên suốt Chinh phụ ngâm là cảnh người chinh phụ héo mòn ngóng trông chờ đợi người chinh nhân trở về.
Người thiếu phụ cũng từng lấy làm tự hào về tài năng của chồng mình. Dường như, nàng có một chút ngóng trông vào tương lai tươi đẹp, vào công hầu khanh tước với tài năng ấy:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Thế nhưng, tất cả mong ước xa xưa tan vỡ khi người chinh nhân ra trận. Nàng chờ đợi tin nhắn mà biệt vô âm tín, rơi vào tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng và cất lời oán trách. Bằng việc thể hiện tâm trạng của người thiếu phụ, tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là tiếng nói oán trách chiến tranh phi nghĩa đã giày xéo lên hạnh phúc lứa đôi.
Chinh phụ ngâm là một tác phẩm trữ tình, từ đầu đến cuối tác phẩm vẫn chỉ là tâm trạng của nhân vật trữ tình là người chinh phụ. Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được phát triển theo mạch tâm trạng và nỗi nhớ nhung của người thiếu phụ. Nội tâm đầy biến động được tác giả khéo léo diễn tả qua những từ ngữ chỉ ngoại hình, hành động, việc làm của người chinh phụ.
Sự trông đợi mỏi mòn và vô vọng đã khiến nàng trễ nải cả việc điểm phấn tô son, công việc quan trọng nhất của người phụ nữ:
Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng,
Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Nỗi đau buồn của người thiếu phụ trong cảnh mỏi mòn chờ đợi đã khiến nàng như mất hết sức lực, như người mộng du:
Há như ai hồn say bóng lẫn,
Sự chờ đợi vô vọng đã khiến nàng tê liệt cả tinh thần.
Bằng việc miêu tả ngoại hình, dáng vẻ bề ngoài, tác giả đã thành công lột tả được trạng thái tâm lí phức tạp của người thiếu phụ. Dưới ngòi bút tài hoa ấy, nàng hiện lên với vẻ mệt mỏi và buông xuôi, nỗi cô đơn đã giày vò cả tâm thần và thể xác khiến nàng nhạt phấn phai hương. Nỗi cô đơn dường như bao trùm cả lên không gian và thời gian. Trong và ngoài căn phòng đều tràn ngập nỗi buồn tủi, cô đơn.
Cái vẻ lẻ loi, buồn thương ấy hiện lên thật rõ ràng với hình ảnh:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Giữa cái không gian tĩnh mịch của đêm, tiếng bước cô độc chân chậm rãi từng bước khua vào sàn như gieo vào lòng người cái âm thanh của sự lẻ loi cô độc.
Nỗi đau đớn âm thầm nhưng quá lớn ấy khiến nàng khao khát có sự đồng cảm. Nhưng trong căn nhà vắng chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng mà thôi. Liệu ngọn đèn có thấu hiểu được không hay sức nặng của nỗi cô đơn, của sự nhung nhớ lại dồn cả lên nàng.
Ngọn đèn chỉ là vật vô tri vô giác, làm sao hiểu được tâm trạng của nàng:
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Cảnh vật chẳng những không san sẻ mà dường như còn cộng hưởng cùng nỗi sầu của người chinh phụ khiến nàng đau càng đau, sầu càng sầu. Dường như người thiếu phụ thức trắng cả năm canh bởi nỗi nhớ nhung giày vò cả ngày cả đêm:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Dịch giả đã sử dụng rất hợp lí những từ ngữ thuần Việt với những chữ như "eo óc", "phất phơ", những từ ngữ ấy dùng để tả cảnh nhưng cũng đã gột tả được nỗi cô độc, buồn sầu của người thiếu phụ. Nó vừa là hình ảnh, vừa gợi tâm trạng. Dáng hoè phất phơ kia gợi nên hình ảnh người chinh phụ vật vã trong nhớ nhung giữa đêm khuya lẻ loi. Thời gian khi đợi chờ là thời gian đằng đẵng, vô cùng vô tận. Người chinh phụ cũng vì vậy mà trở nên nhỏ bé và đơn độc trước không gian và thời gian.
Nàng biết nỗi đợi chờ là vô vọng nên đã cố gắng để đưa mình ra khỏi nỗi cô đơn nhưng cũng đành bất lực. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son, gắng gượng dạo nên khúc đàn xưa nhưng nàng nhận ra nàng càng cố gắng vùng vẫy thì càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Nàng chạm đến đâu cũng nỗi đau, cũng nhìn thấy cảnh lẻ loi của chính mình. Soi gương thì đối diện với gương mặt thanh xuân ngày nào đang mỏi mòn chờ đợi và tuổi xuân tươi đẹp đang phũ phàng trôi qua. Khúc đàn loan phượng gợi cho nàng nhớ cảnh chồng vợ chia lìa. Nỗi đau đớn, tủi hờn của người chinh phụ thể hiện nỗi khao khát hạnh phúc lứa đôi chân chính.
Dịch Chinh phụ ngâm, dịch giả đã chọn thể thơ song thất lục bát, một thể thơ dân tộc có khả năng lớn trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình, nhất là tâm trạng buồn đau, sầu muộn. Dịch giả đã dịch rất thanh thoát nội dung của nguyên tắc, đảm bảo được nội dung nguyên tắc, thể hiện chân thực nỗi buồn của người thiếu phụ: mãnh liệt, da diết nhưng kín đáo. Chinh phụ ngâm đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc của ngôn ngữ văn học dân tộc.
Với tác phẩm này, tiếng Việt đã chứng minh khả năng diễn tả tư tưởng tình cảm một cách sâu sắc, tinh tế. Với tấm lòng thương yêu và sự cảm thông sâu sắc với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, tác giả và dịch giả cất lên tiếng kêu nhân đạo, tiếng kêu phản đối chiến tranh phi nghĩa. Thái độ phản chiến tuy không bộc lộ trực tiếp song lại rất mạnh mẽ.
3. Kết Bài
"Vì ai gây dựng cho nên nỗi này" là lời oán thán nặng nề nhất trong Chinh phụ ngâm, lời ai oán không mạnh mẽ nhưng uất ức và oán trách. Đó là một trong những giá trị của Chinh phụ ngâm. Nhưng cao hơn cả, tác phẩm là sự tiếp nối xuất sắc cảm hứng nhân đạo của nền văn học dân tộc, một lần nữa, những khao khát hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến lại được ủng hộ. Đề tài về thân phận người phụ nữ lại được góp thêm một tiếng nói mới đầy sức mạnh nhân văn.