Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí 2 Dàn ý & 9 bài văn mẫu hay nhất
TOP 9 bài Cảm nhận về hình ảnh “Đầu súng trăng treo” ngắn gọn, đặc sắc nhất, sẽ giúp các em học sinh hiểu rõ hơn ý nghĩa sâu sắc của câu kết trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu được học trong chương trình Văn 9, Bài 7 sách Ngữ văn 8 Kết nối tri thức với cuộc sống Tập 2. Hình ảnh đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí thể hiện tình đồng chí, đồng đội của người lính cách mạng trong những năm tháng kháng chiến gian lao, vất vả. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:
Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí
- Dàn ý cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí
- Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” ngắn gọn
- Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” - Mẫu 1
- Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” - Mẫu 2
- Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” - Mẫu 3
- Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” - Mẫu 4
- Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” - Mẫu 5
- Suy nghĩ của em về hình ảnh Đầu súng trăng treo
- Viết đoạn văn cảm nhận hình ảnh Đầu súng trăng treo
- Đoạn văn cảm nhận hình ảnh Đầu súng trăng treo
Dàn ý cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí
Dàn ý 1
1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Khái quát hình ảnh đầu súng trăng treo.
2. Thân bài:
a) Khái quát về hoàn cảnh sáng tác và nội dung bài thơ:
- Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, sau khi nhà thơ và những người đồng đội của mình tham gia chiến dịch Việt Bắc.
- Bài thơ "Đồng chí" đã làm nổi bật hình ảnh những người lính có chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung lí tưởng cách mạng. Không chỉ vậy, Chính Hữu còn muốn ngợi ca tình đồng đội, đồng chí gắn bó thân thiết trong chiến đấu.
b) Giới thiệu về câu thơ:
- Vị trí câu thơ: Câu thơ khép lại bài thơ.
- Cấu tạo của câu thơ: Bốn tiếng ngắn gọn.
c) Cảm nhận về vẻ đẹp hình ảnh "Đầu súng trăng treo":
- "Đầu súng trăng treo" là hình ảnh rất thực nhưng cũng rất lãng mạn: Hình ảnh tả thực: Ánh trăng trên bầu trời.
- Hình ảnh lãng mạn:
- "Súng": Đại diện cho người lính.
- "Trăng": Đại diện cho nhà thơ.
=> Sự tổng hòa giữa chất trữ tình, lãng mạn nhưng cũng đầy thực tế của nhà thơ chiến sĩ Chính Hữu.
=> Vầng trăng xuất hiện trong không gian căng thẳng của cuộc chiến gợi liên tưởng đến những ước mong của người lính về một ngày mai đất nước được độc lập.
3. Kết bài:
- Khẳng định lại ý nghĩa của hình ảnh thơ.
Dàn ý 2
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Chính Hữu, bài thơ Đồng chí và đoạn thơ cuối bài.
2. Thân bài
“Đêm nay rừng hoang sương muối”: khung cảnh, điều kiện chiến đấu vất vả, khó khăn. Người lính phải đứng canh giữa đất trời vào đêm khuya khi thời tiết buốt giá và khắp nơi bị sương mù bao phủ. Khó khăn chồng chấp khó khăn, gian khổ chồng chất gian khổ. Giữa nơi rừng hoang nước độc, các anh vẫn kiên cường kháng chiến bảo vệ nền độc lập cho nước nhà.
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” tuy điều kiện khó khăn, gian khổ là thế nhưng người chiến sĩ luôn kề vai sát cánh bên nhau, cùng nhau chiến đấu, cùng chung lí tưởng, mục đích cao đẹp. Chính hoàn cảnh éo le này lại làm họ trở nên gắn kết hơn.
“Đầu súng trăng treo”: đây là một hình ảnh thơ vô cùng lãng mạn. Khẩu súng trên vai người chiến sĩ chĩa mũi lên tưởng như chiếc giá đỡ có thể đỡ được ánh trăng sáng tròn phía xa xa. Câu thơ vừa thực vừa ảo cho ta nhiều cảm xúc mới mẻ. Khoảng cách giữa bầu trời và mặt đất, giữa con người và thiên nhiên đã được xích lại gần gũi hơn bởi một từ treo. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp tả thực và lãng mạn vừa xa vừa gần.
→ Ba câu thơ ngắn gọn, hàm súc nhưng lại chứa đựng nội dung sâu sắc, khiến bạn đọc hiểu thêm về người lính nghèo và hoàn cảnh chiến đấu gian khổ của họ để từ đó ta thêm trân trọng độc lập, tự do hiện có.
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ đồng thời nêu vai trò của bài thơ đối với nền văn học Việt Nam.
Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” ngắn gọn
Trăng là người bạn tri âm tri kỉ đồng hành cùng con người trong mọi hoàn cảnh. Từ bao lâu nay, hình ảnh đó đã đi vào thơ ca một cách rất tự nhiên. Có rất nhiều nhà thơ mượn ánh trăng để giãi bày lòng mình. Tiêu biểu phải kể đến nhà thơ Chính Hữu với bài thơ "Đồng chí". Kết thúc bài thơ, tác giả gợi nhắc đến hình ảnh "Đầu súng trăng treo" mang nhiều ý nghĩa.
Bài thơ "Đồng chí" được sáng tác vào năm 1948, sau khi nhà thơ và những người đồng đội của mình tham gia chiến dịch Việt Bắc. Qua bài thơ, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh những người lính có chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung lí tưởng cách mạng mong muốn mang lại hòa bình cho Tổ quốc. Hình ảnh "Đầu súng trăng treo" nằm ở cuối bài thơ để nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn của những người đồng chí trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hình ảnh "Đầu súng trăng treo" mang hai nét nghĩa đó là tả thực và lãng mạn. Những đêm lạnh giá canh gác nơi rừng sâu, người lính vẫn trông thấy ánh trăng trên bầu trời đang chiếu sáng cho muôn loài. Vầng trăng quen thuộc như một người bạn đồng hành cùng họ trong mọi hoàn cảnh. Chính nhà thơ Chính Hữu đã từng chia sẻ rằng: "Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật". Vậy rõ ràng, với người lính, ánh trăng chính như tiếp thêm sức mạnh để họ có thể vững vàng tay súng chiến đấu. Nhưng không dừng lại ở nét nghĩa đó, nhà thơ Chính Hữu còn muốn mang đến cho ta một cảm nhận khác về ý nghĩa hình ảnh "Đầu súng trăng treo". "Súng" là biểu tượng của chiến tranh. Còn "trăng" tượng trưng cho hòa bình. Việc nhà thơ để hình ảnh "súng, trăng" cạnh nhau đã thể ước mong về một ngày không xa hòa bình sẽ đến với dân tộc.
Việc tác giả đan cài giữa chất hiện thực và lãng mạn trong câu thơ đã cho ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những người lính. Giữa cái khốc liệt của chiến tranh, họ vẫn luôn lạc quan, yêu đời, mở rộng lòng mình cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên. Và ước mong một ngày không xa đánh thắng được quân thù luôn thường trực trong trái tim của người lính.
"Súng" tượng trưng cho người lính, còn "trăng" thường gắn liền với thi nhân. Hình ảnh thơ "Đầu súng trăng treo" như sự hòa hợp đầy ngọt ngào giữa chất trữ tình lãng mạn của một nhà thơ và sự kiên cường, mạnh mẽ chảy trong máu người lính. Qua đó, ta thấy được bức chân dung, tính cách của tác giả Chính Hữu - một nhà thơ chiến sĩ nổi tiếng trong nền văn chương Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Hình ảnh "Đầu súng trăng treo" khép lại bài thơ gợi nhiều liên tưởng độc đáo. Nhà thơ đã nhấn mạnh vẻ đẹp của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Qua đây, ta cũng phần nào thấy được tâm hồn bay bổng, lạc quan cùng ngòi bút tài hoa của Chính Hữu.
Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” - Mẫu 1
Chính Hữu là một nhà thơ cách mạng, ông trưởng thành trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Những tác phẩm của ông đều để lại sự mộc mạc giản dị, nhưng không kém phần lãng mạn, tinh tế.
Bài thơ “Đồng chí” được tác giả Chính Hữu viết trong cuộc kháng chiến chống quân Mỹ xâm lược. Thể hiện sự bi tráng, anh hùng của người lính, của chiến sĩ bộ đội cụ Hồ dũng cảm kiên cường trong đấu tranh, nhưng không kém phần lãng mạn, thi vị trong cuộc sống, trong hoài bão lý tưởng.
Đề tài người lính không phải đề tài mới mẻ nhưng với tác giả Chính Hữu hình ảnh người lính được khắc họa khá chân thực, ấn tượng thể hiện sự tà khốc của chiến tranh, của đạn bom. Nhưng hình ảnh “Đầu súng trăng treo” lại là một hình ảnh vô cùng lãng mạn, thể hiện sự tinh tế của tác giả trong việc sử dụng hình tượng thơ.
Bao trùm lên toàn bài thơ là hình ảnh người chiến sĩ cách mạng, kiên trung, hiên ngang bất khuất, vượt qua mọi khó khăn thử thách vẫn một lòng bền gan quyết chí hướng tới miền Nam ruột thịt, thống nhất nước nhà.
Cuộc sống dù có nhọc nhằn, gian khổ thiếu thốn vẫn không đánh bại được ý chí sự kiên trì của những con người vì dân vì nước mà hy sinh quên mình.
Người lính ra trận phải đối diện với nhiều khó khăn, hình ảnh rừng hoang sương muối, thể hiện sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Thể hiện sự khổ ải trên con đường cứu nước.
Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Nếu như ở câu thơ đầu tiên thể hiện sự nghiệt ngã của thiên nhiên, của địa hình Trường Sơn thì trong hai câu tiếp theo lại mang ý nghĩa hoàn toàn khác. Hình ảnh người lính hiên ngang canh gác, chờ quân giặc tới để chiến đấu không hề run sợ lo lắng, thể hiện sự chủ động của người lính.
Hình ảnh “đầu súng trăng treo” thể hiện sự đối lập giữa súng và trăng giữa thực tại và tâm hồn người lính là hoàn toàn trái ngược nhau. Dù cuộc sống thực tại có khó khăn khắc nghiệt thì tâm hồn người lính vẫn thi vị đượm chất trữ tình, lãng mạn
Chính Hữu đã thể hiện chất liệu thơ vô cùng lãng mạn, đây là hình ảnh độc đáo thể hiện dụng ý nghệ thuật điêu luyện của tác giả. Tạo nên một nét chấm phá độc đáo làm nên hình tượng cho bài thơ nhiều sáng tạo.
Nó thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời của những người lính trẻ đang độ xuân xanh yêu đời, lòng tràn ngập ước mơ hoài bão lý tưởng sống lớn lao.
Tác giả Chính Hữu đã vô cùng đặc sắc khi xây dựng hình ảnh “Đầu súng trăng treo” tạo nhiều ám ảnh trong tâm trí người đọc, nó là hình tượng thành công nhất tạo nên nét riêng của bài thơ.
Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” - Mẫu 2
Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến. Chiến tranh là chất liệu làm nên nét chân thực, dữ dội và không kém phần lãng mạn trong những vần thơ ông viết. “Đồng chí” là bài thơ sáng tác trong thời kì đất nước ta kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Hình ảnh người lính được khắc họa đậm nét và đầy ấn tượng. Sự khốc liệt của chiến tranh vẫn khiến cho thơ ông có sự mềm mại và trữ tình. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” cuối bài thơ tiêu biểu cho khuynh hướng đó.
Bao trùm lên bài thơ “Đồng chí” là hình ảnh người lính cụ hồ hiên ngang, bất khuất, vượt qua mưa gió bão bùng, sự gian khổ và khắc nghiệt của thời tiết để hướng về phía trước. Cuộc sống nhọc nhằn, thiếu thốn vẫn không thể đánh gục những con người vì dân vì nước như vậy.
Giữ rừng hoang sương muối bao phủ lấy, hình ảnh “đầu súng trăng treo” như một nét chấm phá tuyệt đẹp. Nó hiện lên trong trang viết của Chính Hữu như một bức tranh:
Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Nếu như ở hai câu thơ trên tái hiện lại sự khắc nghiệt, gian khổ của địa hình và thời tiết thì câu thơ thứ ba, duy nhất chỉ có trăng và súng lại rất thơ mộng và lãng mạn. Có lẽ đây chính là dụng ý của tác giả khi viết bài thơ này.
Giữa đêm đông giá lạnh, sương muối bao trùm khiến cho những người lính rét run người. Dù khắc nghiệt, gió khó khăn bủa vây nhưng hình tượng người lính vẫn hiện lên thật kiên cường và cao đẹp. Họ vẫn luôn “đứng cạnh bên nhau” để “chờ giặc tới”. Tư thế và tâm thế luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta phải khâm phục và ngưỡng mộ.
Không phải vô tình mà 3 câu thơ này được tác ra làm một khổ riêng, có lẽ dụng ý của tác giả muốn làm nổi bật hình ảnh ‘đầu súng trăng treo” ở cuối bài thơ. Trên cái nền ảm đạm, khắc nghiệt, nguy hiểm của thiên nhiên và chiến tranh nhưng người lính vẫn luôn kiên cường, bất khuất. Họ luôn tràn đầy tình yêu và sự lạc quan để tiến về phía trước đánh đuổi kẻ thù.
Mặc dù hình ảnh “đầu súng trăng treo” gồm “trăng” và "súng”, tưởng như đối lập nhau giữa cái lãng mạn, trữ tình và cái hiện thực khắc nghiệt nhưng trong thơ Chính Hữu nó lại trở nên mềm mại. Trăng và súng không còn đối lập nhau nữa mà hòa quyện vào nhau làm nên một khung cảnh tuyệt đẹp giữa rừng hoang sương muối rơi ướt vai người lính.
Đấy chính là chất liệu lãng mạn nổi bật trên hiện thực khắc nghiệt. Đây thực sự là một hình ảnh đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Người lính vẫn sẵn sàng canh gác bảo vệ tổ quốc, mũi súng hướng lên trời mà tác giả cứ ngỡ súng chạm vào trăng. Một nét điểm xuyết chấm phá tạo nên bức tranh đối lập nhưng vô cùng hài hòa và đầy tinh tế.
Những người lính có tuổi đời còn rất trẻ, họ có lý tưởng sống và cống hiến cho đất nước nhưng họ cũng ấp ủ những ước mơ bé nhỏ, một tình yêu bé nhỏ hay bóng dáng người con gái nào đó. Trong lòng họ vẫn luôn giữ được sự lạc quan, tin tưởng và sự lãng mạn đáng trân trọng. Chiến tranh khắc nghiệt nhưng không để nó làm trái tim người lính chai lì mới thực sự là điều đáng quý.
Bởi vậy mới có thể thấy rằng "đầu súng trăng treo” dường như lan tỏa thứ ánh sáng dịu nhẹ của ánh trăng xuống cánh rừng, lan vào lòng người lính sự mát dịu, trong lành nhất.
Chính Hữu đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh "đầu súng trăng treo” ám ảnh tâm trí người đọc như thế này. Gấp trang sách lại nhưng hình ảnh này còn neo đậu mãi.
Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” - Mẫu 3
Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, sinh ngày 15/12/1926, tại thành phố Vinh, Nghệ An, quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh. Ông là nhà thơ tiêu biểu trong kháng chiến với những bài thơ nói về cuộc sống của những người lính và những tâm tư tình cảm của bộ đội tham gia kháng chiến. Nói về những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Chính Hữu, chúng ta có thể nhắc tới bài thơ Đồng chí, sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi Chính Hữu đã cùng đồng đội tham gia chiến dịch Thu đông 1947, đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Cảm nhận về bài thơ chúng ta không thể không ấn tượng với hình ảnh đầu súng trăng treo.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Mở đầu cho hình ảnh đầu súng trăng treo là cảnh rừng hoang, sương muối âm u, lạnh giá. Dù khắc nghiệt nhưng những người lính vẫn thật kiên cường và cao đẹp. Họ vẫn “ đứng cạnh nhau” và “chờ giặc đến” làm chúng ta không khỏi tự hào và ngưỡng mộ. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau. . Câu kế tiếp là hình ảnh đầu súng trăng treo được tạo nên nhờ sự liên tưởng thông minh và độc đáo.
Trong đêm gác, anh bộ đội hướng mũi súng về phía trăng, trăng ngang tầm mũi súng, tạo cảm giác đầu súng trăng treo. Là hai hình ảnh đối lập, súng tượng trưng cho tinh thần chiến đấu bảo vệ cuộc sống tốt đẹp yên lành, trăng tượng trưng cho cuộc sống yên lành ấy. Ý thơ tạo liên tưởng bất ngờ do ý thơ lãng mạn để tạo ra một ý nghĩa tượng trưng. Ngoài ra còn thể hiện tinh thần chiến đấu bất khuất, tinh thần lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của đất nước của những người chiến sĩ. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như thế. Chất lãng mạn được nổi bật trên hiện thực khắc nghiệt, thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả.
Ai cũng biết rằng ánh trăng đã trở thành đề tài nổi bật cho những người chiến sĩ cách mạng, xa quê hương. Vận dụng khéo léo trong bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã tạo ra hình ảnh Đầu súng trăng treo thật đẹp và giàu sức khái quát.
Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” - Mẫu 4
“Đầu súng trăng treo” là câu kết bài thơ Đồng chí. cũng là một biểu tượng đẹp về người chiến sĩ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng.Hình ảnh trăng tạo nên con người thi sĩ.
Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. Hai hình ảnh tưởng là đối lập nhau đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa hòa hợp vô cùng độc đáo. Súng là chiến đấu gian khổ, hi sinh, là hiện thực. Còn trăng là tượng trưng cho hòa bình, gợi lên sự đẹp đẽ thơ mộng, dịu dàng và lãng mạn.
Người lính cầm súng để bảo vệ hòa bình, khát khao hòa bình, không ngại gian khổ hi sinh. Súng và trăng: cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, có người còn gọi đây là một cặp đồng chí.Chính Hữu đã thành công với hình ảnh “đầu súng trăng treo” - một biểu tượng thơ giàu sức gợi cảm.
“Đầu súng trăng treo” đã trở thành một biểu tượng đẹp của người lính cách mạng Việt Nam hiện thực và lãng mạn, chiến sĩ và thi sĩ. Hình ảnh “ánh trăng” của Nguyễn Duy: Ánh trăng của Nguyễn Duy không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước mà còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ. Hình ảnh “ánh trăng” bắt đầu gắn với cuộc sống bình thường của con người và vầng trăng thời chiến tranh, vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng tình nghĩa ngỡ không bao giờ quên. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được sống cuộc sống tiện nghi: ở buyn-đinh, quen ánh điện, cửa gương... và vầng trăng tri kỉ tình nghĩa đã bị người tri kỉ xưa lãng quên, dửng dưng. Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, như người dưng, chẳng còn ai nhớ, chẳng ai hay. Bất ngờ gặp một tình huống của nhịp sống thành thị: thình lình đèn điện tắt. Vầng trăng xưa xuất hiện, vần tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung với con người. Cả một quá khứ đẹp và tình nghĩa ùa về rưng rưng trong lòng người lính, còn trăng thì im lặng. Người lính giật mình, cái giật mình của người lính trước sự im lặng của trăng xưa hiện về nơi thành phố hôm nay là một biểu tượng nghệ thuật mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là sự bao dung, độ lượng, nghĩa tình, thủy chung của nhân dân, sự trong sáng mà không hề đòi hỏi được đền đáp.
Đây chính là phẩm chất cao đẹp của nhân dân mà tác giả muốn ngợi ca tự hào. Cũng là thông điệp hãy biết nhớ về quá khứ tốt đẹp, không nên sống vô tình. Đó chính là ý nghĩa sâu sắc của hình ảnh trăng trong bài thơ của Nguyễn Duy tự nhắn nhủ mình và muốn gửi gắm.
Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” - Mẫu 5
Đầu súng trăng treo là câu kết bài thơ Đồng chí, cũng là một biểu tượng đẹp về người chiến sĩ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng.
Hình ảnh trăng tạo nên con người thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. Hai hình ảnh đối lập đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa vô cùng độc đáo. Súng là chiến tranh lạnh lùng, là gợi ra sự chết chóc, tàn phá, ghê sợ. Còn trăng là tượng trưng cho hòa bình, gợi lên sự thanh cao, hạnh phúc, thơ mộng, dịu dàng. Người lính cầm súng để bảo vệ hòa bình, khát khao hòa bình. Súng và trăng: cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, có người còn gọi đây là một cặp đồng chí.
Chính Hữu đã thành công với hình ảnh Đầu súng trăng treo - một biểu tượng thơ giàu sức gợi cảm. Tác giả đã từng nói: "Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng đi phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật: Khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện với nhau tạo ra hình ảnh đầu súng trăng treo".
Đầu súng trăng treo, đã trở thành một biểu tượng đẹp của người lính cách mạng Việt Nam: Hiện thực và lãng mạn, chiến sĩ và thi sĩ.
Suy nghĩ của em về hình ảnh Đầu súng trăng treo
Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. Ở truyền thuyết “Chú cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế nữa, trăng đã đi vào cuộc chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hun kết tinh thành hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất đẹp trong bài thơ Đồng chí của mình.
Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập “Đầu súng trăng treo”. Thế mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng không thiếu nét lãng mạn đó.
Đầu súng trăng treo - đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực và sinh động. Giữa núi rừng heo hút “rừng hoang sương muối” giữa đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hoà quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ gợi, chỉ đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn, soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ… Giờ đây, người chiến sĩ như không còn vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ánh trăng toả ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng chua” hay “đất cày trên sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cũng có thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặc kệ”, vẫn say sưa với ánh trăng. Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng tỏa sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những người lính. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ.
Đầu súng trăng treo - hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và trăng kết hợp với nhau: súng tượng trưng cho chiến đấu- trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh phúc. Súng là con người, trăng là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến. Súng là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ kiên cường- Trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hoà tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lí tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng tượng xem: giữa đêm khuya rừng núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng khoác trên vai, nòng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay nòng ngọn súng. Đó là biểu tượng Khát Vọng Hoà Bình, nó tượng trưng cho tư thế lạ quan bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.
Cái thân của câu thơ “Đầu súng trăng treo” nằm ở từ “treo”, ta thử thay bằng từ mọc thì thật thà quá, làm sao còn nét lãng mạn? Và hãy thay một lần nữa bằng từ “lên” cũng không phù hợp, vì nó là hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ không còn cái bất ngờ màu nhiệm nữa. Chỉ có trăng “treo”. Phải, chỉ có “Đầu súng trăng treo” mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của một đêm trăng “đứng chờ giặc tới”, chẳng thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu bài thơ dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại “đêm nay” trong một không gian mà mặt đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và lòng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút. Thế nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì vầng trăng ấy sẽ có hình khối của không gian ba chiều. ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và trong hội hoạ nó mang tính biểu tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu này: “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” và Phạm Tiến Duật thì “Và vầng trăng vượt lên trên quầng lửa” hay Hoàng Hữu “Chỉ một nửa vầng trăng thôi một nửa. Ai bỏ quên ở phía chân trời…”. Nhưng có lẽ hay nhất vẫn là “Đầu súng trăng treo”.
Như đã nói ở trên, không phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu lấy hình ảnh “Đầu súng trăng treo” làm tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạn nhưng không thoát li, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ Việt Nam nhưng chưa có sự kết hợp kì diệu nào bằng hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu.
Nếu như Elsa Triolet – nữ văn sĩ Pháp có nói “Nhà văn là người cho máu” thì tôi hãnh diện nói với văn sĩ rằng: Chính Hữu đã cho máu để tạo nên câu thơ tuyệt vời để cống hiến cho cuộc kháng chiến của chúng ta. Và bạn ơi! Bạn hãy thả cùng tôi những chú chim trắng trên bầu trời, hãy hát vang lên ca khúc Hoà Bình vì hình ảnh đầu súng trăng treo mà nhà thơ đã gửi vào đó bao nhiêu khát vọng nay đã thành hiện thực.
Viết đoạn văn cảm nhận hình ảnh Đầu súng trăng treo
Bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu kết thúc với hình ảnh "Đầu súng trăng treo" mang đầy ý nghĩa. Đó là hình ảnh thực mà tác giả đã nhận ra trong những đêm phục kích chờ giặc tới. Ánh trăng trên bầu trời mà đêm đêm vẫn tỏa thứ ánh sáng dịu hiền xuống mặt đất. Chẳng biết từ bao giờ trăng đã trở thành người bạn tri âm tri kỉ, đồng hành cùng người lính. Nhưng hình ảnh "Đầu súng trăng treo" còn gợi ra hình dung về vầng trăng như đang treo lơ lửng ngay trên đầu súng. Trong cuộc chiến, "súng" là biểu tượng cho chiến tranh ác liệt. Còn "trăng" tượng trưng cho cái đẹp, cho độc lập, tự do. Việc nhà thơ đặt hình ảnh "súng" và "trăng" cạnh nhau như muốn nhấn mạnh mong ước của những người lính về một ngày không xa đất nước được thống nhất. Việc đan cài giữa chất hiện thực và lãng mạn còn gợi nên vẻ đẹp tâm hồn của những người lính. Trong cái khắc nghiệt của chiến tranh, họ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên. Đó như là động lực tiếp thêm sức mạnh cho những người chiến sĩ có thể cầm chắc tay súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Việc để hình ảnh "Đầu súng trăng treo" ở cuối bài thơ chính là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ Chính Hữu. Qua đó, ngợi ca tâm hồn lãng mạn của những người lính trong kháng chiến.
Đoạn văn cảm nhận hình ảnh Đầu súng trăng treo
Hình ảnh đầu súng trăng treo thể hiện sự hình ảnh lãng mạn, thể hiện hình ảnh của người lính cách mạng và cũng thể hiện được hình ảnh các người lính phải đứng gác nơi rừng hoang rét buốt. Trong đêm sương muối rét buốt, những người lính phải đứng gác nơi rừng hoang. Trong thời tiết, hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn như vậy, những người lính vẫn luôn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng chờ quân giặc đến. Trong cuộc kháng chiến gian khổ ấy, những người lính lại sát cánh bên nhau, đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu, không quản ngại khó khăn khổ cực. Hình ảnh những người lính hiện lên rất chân thực, rất đẹp. Hình ảnh đầu súng trăng treo vừa là hình ảnh tả thực lại vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đêm đứng gác về khuya, trăng xuống thấp, những người lính lại đeo súng trên vai nên ta có cảm giác như trăng treo nơi đầu súng. Cũng như vậy, ta thấy hình ảnh đầu súng trăng treo là hình ảnh người lính cách mạng, và qua đó cũng chính là thể hiện tình đồng chí, đồng đội của người lính cách mạng trong những năm kháng chiến.