Thuyết minh về một thể loại văn học (Dàn ý + 16 mẫu) Những bài văn thuyết minh hay nhất

TOP 16 bài Thuyết minh về một văn bản, một thể loại văn học hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh nắm được khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các thể thơ Lục bát, Đường luật, Truyện ngắn, Hài kịch, Trường ca,... nhanh chóng hoàn thiện bài văn thuyết minh của mình.

Thuyết minh

Để bài văn thuyết minh thêm hấp dẫn, các em chú ý đến các phần chính như nêu nguồn gốc, đặc điểm, ý nghĩa, sự phát triển. Đặc biệt cần đưa thông tin chính xác nhưng có sức thuyết phục với người đọc. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:

Đề bài: Thuyết minh về một văn bản, một thể loại văn học đơn giản (như văn bản đề nghị, báo cáo, thể thơ lục bát...)

Thuyết minh về một văn bản, một thể loại văn học đơn giản

Dàn ý thuyết minh văn bản, thể loại văn học đơn giản

1. Thuyết minh về một văn bản cần chú ý làm nổi bật những ý sau:

  • Giới thiệu về các phần các mục của văn bản.
  • Công dụng của văn bản.
  • Cách làm.
  • Những điểm cần lưu ý hay những lỗi thường gặp nên tránh khi tạo lập văn bản.

2. Thuyết minh về một thể loại văn học cần tập trung vào các ý

  • Đặc điểm của thể loại:
    • Về cấu trúc.
    • Về âm thanh.
    • Về nhịp điệu.
    • Số câu, số chữ.
    • Nguyên tắc cấu tạo, xây dựng hình tượng.
  • Vai trò của thể loại trong lịch sử và trong đời sống văn học nói chung.

Thuyết minh về thể loại văn học Phú

Phú là một thể loại văn chương cổ có nguồn gốc từ Trung Hoa. Trong quá trình du nhập và phát triển, thể loại văn học này đã có nhiều sự biến đổi và phát triển. Có rất nhiều những nhà thơ, nhà văn Việt Nam thời kì này sử dụng Phú đã sáng tác nên những tác phẩm kiệt xuất.

Phú là thể loại văn vần, có từ thời nhà Hán nhưng thể phú được sử dụng nhiều nhất tại Việt Nam có nguồn gốc từ thời Đường, gọi là Đường Phú. Theo tiếng Hán, "phú" chủ yếu là thể văn tả cảnh, nhưng thơ phú thường mượn cảnh để tả tình, tả cảnh vật để nói lên suy nghĩ nội tâm của con người. Thể phú được vua chúa Việt Nam dùng trong khoa cử. Trong kì thi Hương và thi Hội, phú là một phần của tam trường.

Bài phú có hai yếu tố là vần và đối. Một câu chia làm hai vế phải đối nhau. Chữ cuối câu thứ hai trong bài phú thì gieo vần, cấu trúc câu ngăn, dài không bó buộc khiến thể thơ mang hàm ý kể chuyện giống văn xuôi. Cách sắp xếp bài phú có năm đoạn, phần lưng, mở bài, phần biện nguyên, tìm gốc rễ của đề tài, phần thích thực miêu tả ý nghĩa, phần phú diễn, làm rõ ý và phần nghị luận, tổng kết vấn đề. Số câu trong một bài phú không nhất định, không giới hạn. Câu đầu mỗi đoạn thường dùng câu bốn chữ.

Văn chương Việt Nam có những bài phú nổi tiếng như "Cư trần lạc đạo phú" của vua Trần Nhân Tông soạn bằng chữ Nôm.

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền

Vào thế kỉ 19, có bài "Tụng Tây Hồ phú" của Nguyễn Huy Lượng:

Ngán nhẽ tụng Tây hồ;
Ngán nhẽ tụng Tây hồ!
Vốn trước đã lở hầm toang hoác vũng;
Có lẽ đâu mọc đá nhấp nhô gò?
Người rằng nơi Long tử khoét làm vũng, bởi được bùa quái chú Huyền trao, vậy cáo trắng hách hơi vào đại trạch,
Kẻ bảo ấy Cao vương đào chặn mạch, vì mảng tiếng chuông thầy Khổn nện, nên trâu vàng theo dấu đến trung đô.
...

Phú chữ Nho có bài "Bạch Đằng Giang phú" của Trương Hán Siêu

Khách hữu:

Quải hạn mạn chi phong phàm,
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triệu dát huyền hề Nguyên, Tương,
Mộ u thám hề Vũ huyệt.
....

Nội dung một bài phú chủ yếu được dùng để miêu tả phong cảnh. Với đặc trưng không giới hạn số lượng câu, một câu không quy định số từ, thể phú thường diễn tả lại những cảnh đẹp của thiên nhiên, từ đó liên hệ với tâm trạng và cảm xúc con người.

Ở thời kì Trung đại, những nhà thơ thường dùng thể phú để miêu tả cảnh đẹp đất nước, vạn vật như cảnh trăng khuya, cây rừng, sông nước, chim muông, cảnh hoàng hôn, bình minh. Dựa vào cảnh vật, tác giả bộc lộ tình cảm, suy nghĩ nội tâm. Trong Bạch Đằng giang phú, Trương Hán Siêu nói lên sự kính trọng, biết ơn công dựng nước, giữ nước của các vị hảo hán, Cư trần lạc đạo phú thể hiện sự tĩnh tâm, lối sống tự tại, đơn giản của một nhà tu hành. Ngọc tỉnh liên phú của Mạc Đĩnh Chi thì mượn hình ảnh hoa sen, miêu tả hoa sen trong giếng ngọc cốt để nhắc về giá trị, về tài năng của bản thân mình.

Như vậy, thể phú được sử dụng nhiều trong văn học cổ đại. Trong quá trình giao lưu, học hỏi và tiếp thu đã có nhiều biến đổi để phù hợp với văn phong và quan niệm của người Việt.

Thuyết minh về thể loại văn học Trường ca

Nền văn học thế giới phát triển rực rỡ với nhiều thể loại phong phú, đó là thơ ca, hò vè, truyện ngắn, tiểu thuyết,...và không thể không nhắc đến thể loại trường ca, một trong những thể loại độc đáo trong văn học.

Trước đây, thời cổ đại những tác phẩm sử thi được xem là trường ca. Hiện nay, những tác phẩm thuộc thể loại trường ca là những tác phẩm thơ hoặc văn tự sự có một dung lượng lớn. Trường ca xuất hiện từ rất sớm, trải qua quá trình phát triển thể loại trường ca có nhiều quan niệm, cách đánh giá khác nhau, song nó vẫn có vị trí đặc biệt quan trọng trong văn học.

Để tìm hiểu bản chất của trường ca, một số nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu và đưa ra những luồng ý kiến khác nhau. Một số người xác định bản chất của nó theo cách định lượng tác phẩm: họ cho rằng trường ca phải có sự rộng lớn về nội dung và tầm cỡ về quy mô cảm xúc. Một số khác lại xác định bản chất trường ca theo cách định tính: trường ca phải kế thừa được tính tự sự- sử thi thời cổ đại hoặc trường ca phải là sự giao thoa, kết hợp hài hoà giữa tự sự và trữ tình. Song, dù được xác định như thế nào, trường ca vẫn luôn mang tính trữ tình độc đáo, qua đó người viết thể hiện được dòng cảm xúc, tâm tình của chính mình.

Cách phân loại trường ca được dựa trên nhiều cơ sở, căn cứ vào nội dung có thể kể đến các loại trường ca sau: trường cả có cốt truyện lãng mạn, trường ca anh hùng, trường ca giáo huấn,.. Đề tài của thể loại trường ca khá phong phú. Trường cả thường viết về đề tài đất nước, đề tài lịch sử toàn dân, đề tài lịch sử toàn thế giới, đề tài về các vị anh hùng hoặc đề tài về tôn giáo. Dù ở bất kỳ đề tài nào, trường cả vẫn luôn thể hiện được sự thu hút và hấp dẫn của mình trong chính mỗi tác phẩm được viết ra.

Quá trình phát triển của trường ca qua mỗi thời kỳ được đánh dấu quá nhiều tác phẩm lớn. Thời cổ đại có thể kể đến tác phẩm của John Milton với "Thiên đường đã mất" hay Đante với tác phẩm "Thần khúc". Thời kỳ trung đại có trường ca hiệp sĩ như "Chàng Dũng sĩ khoác áo da hổ" của tác giả Rustaveli hay như "Chàng Orlando cuồng nộ" của Ariosto. Bước vào thời đại chủ nghĩa lãng mạn, trường ca được dịp nở rộ và phát triển đỉnh cao. Những tác phẩm tiêu biểu gây tiếng vang lớn giai đoạn này như "Kỵ sĩ đồng" của thiên tài văn học Puskin hay "Con quỷ" của nhà văn Lomontev. Những năm cuối thế kỉ 19, thể loại này dần suy thoái song vẫn có một số trường ca khá xuất sắc và giá trị như "Bài ca về Hiawatha" hay "Thần băng giá mũi đỏ".

Ở nền văn học nước nhà, thể loại trường ca cũng khá phát triển. Truyền thống lịch sử tốt đẹp cùng các vị anh hùng dân tộc và một thời đại lịch sử hào hùng là nguồn cảm hứng dạt dào và mãnh liệt cho các thi nhân. Theo kết quả của các nhà nghiên cứu trường ca Việt Nam được phát triển qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu trước năm 1975 là giai đoạn trường ca bắt đầu xuất hiện ở nước ta nên có còn mang nặng nét sử thi trong tác phẩm. Giai đoạn sau 1975 trường ca có thiên hướng trữ tình và thể hiện được cái tôi cá nhân của tác giả. Những tác phẩm trường ca xuất sắc và tiêu biểu đóng góp lớn vào thành tựu lớn của văn học nước nhà phải kể đến : "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm, "Những người đi tới biển" của Thanh Thảo, "Con đường những vì sao" của Nguyễn Trọng Tạo, "Khúc hát người anh hùng" của Trần Đăng Khoa, "Mỗi loài hoa một mặt trời" của Trần Anh Thái,...

Khác với các thể loại khác, trường ca mang một nét riêng biệt mà đặc sắc cá tính nhưng cũng đầy dịu dàng, tràn trề xúc cảm. Thể loại trường ca được các nhà thơ, nhà văn tiếp thu và phát triển, biến đổi một cách đầy linh hoạt. Hy vọng rằng, thể loại này sẽ là một miền đất lành để các tác giả tiếp tục thể hiện tài năng của mình, bộc lộ những cảm quan về thời đại mới, con người mới trong xã hội hiện đại.

Thuyết minh về hài kịch

Hài kịch là "Thể loại kịch trong đó có tính cách, tình huống và hành động được thể hiện dưới dạng buồn cười hoặc ẩn chứa cái hài nhằm giễu cợt, phê phán cái xấu, cái lố bịch, cái lỗi thời để tống tiễn nó một cách vui vẻ ra khỏi đời sống xã hội". Hài kịch cho đến thế kỉ XVII được coi như là thể loại đối lập với bi kịch, và tác phẩm của nó kết thúc nhất thiết phải có hậu.

Hài kịch, như trên đã nói, hướng vào sự cười nhạo cái xấu xa, lố bịch đối lập với lí tưởng xã hội hoặc chuẩn mực đạo đức. Nhân vật của hài kịch thường không có sự tương xứng giữa thực chất bên trong với danh nghĩa bên ngoài của mình nên đã trở thành lố bịch. Cái tính cách trong hài kịch thường được mô tả một cách đậm nét, cận cảnh và ở trạng thái tĩnh, nhất là những nét gây cười. Phạm vi phản ánh của hài kịch hết sức rộng lớn: từ những vấn đề chính trị xã hội đến những thói xấu trong sinh hoạt hàng ngày. Trong hài kịch cũng có thể mô tả nỗi đau khổ của con người, song chỉ có thể cho phép ở một mức độ nhất định cho nỗi đau không lấn át cái cười để từ đó hài kịch chuyển thành chính kịch.

Hài kịch ra đời rất sớm, gần như đồng thời với bi kịch. A-ri-xtô-phan (khoảng 445 - 385 trước Công nguyên) nhà viết kịch Hi Lạp cổ đại được coi là "cha đẻ" của hài kịch.

Do nội dung, tính chất, cung bậc của tiếng cười, hài kịch chia thành nhiều tiểu loại khác nhau như hài kịch tính cách, hài kịch tình huống, hài kịch sinh hoạt, hài kịch trào phúng, v.v.

Cho đến nay, những tác phẩm của nhà hài kịch vĩ đại người Pháp Mô-li-e (1622 - 1673) được coi là hình thức cổ điển của thể loại hài kịch.

Thuyết minh về thể loại văn học Ca dao

Thuyết minh về thể loại Ca dao - Mẫu 1

Ca dao là loại thơ trữ tình xuất hiện từ lâu đời và rất phổ biến trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Nội dung chính của nó là phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm phong phú của người bình dân. Dân ca là những sáng tác kết hợp giữa ca dao với các làn điệu dân ca. Vì thế mà ca dao – dân ca thường sóng đôi, gắn bó như hình với bóng.

Người bình dân thời xưa hay dùng ca dao – dân ca để thể lộ tâm tình và nói lên những suy nghĩ về cuộc sống. Trong giao tiếp hằng ngày, họ có thói quen mượn những câu ca dao hợp tình, hợp cảnh để diễn đạt thay cho lời nói, làm tăng sức biểu cảm của lời nói. Từ ca dao, người dân biến thành các làn điệu dân ca nhằm gửi gắm, bộc lộ đầy đủ hơn tâm tư, tình cảm của mình.

Chủ đề đầu tiên của ca dao, dân ca Là những câu hát thổ lộ tâm tình. Những câu hát này thường gắn liền với các hình thức sinh hoạt lao động, sinh hoạt gia đình và sinh hoạt cộng đồng. Hình thức hát cũng rất đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, từng công việc. Lứa tuổi trẻ thơ có những bài đồng dao hát khi chơi các trò chơi quen thuộc như: chi chi chành chành, chồng nụ chồng hoa, dung dăng dung dẻ… Nông dân có hát phường cấy, ngư dân có hò chèo thuyền, hò kéo lưới, thợ dệt có hát phường vải… Từng vùng miền đều có những câu ca dao, những làn điệu dân ca mang tính chất đặc trưng cho con người và địa phương. Ví dụ như Phú Thọ có hát xoan, Bắc Ninh có dân ca quan họ, Nghệ – Tĩnh có hát phường vải và nhiều điệu hò; Huế có ca Huế, hò Huế; vùng Ngũ Quảng có hát bài chòi; Nam Bộ có các điệu lý, điệu hò của vùng đồng bằng sông nước… Dù hình thức khác nhau nhưng tất cả đều cùng chung một nội dung phản ánh tâm tư tình cảm vui buồn và những ước mong, khát vọng của người dân lao động thuở xưa.

Một trong những tình cảm trong sáng và đẹp đẽ mà ca dao luôn nói tới là tình yêu tha thiết đối với quê hương, đất nước. Non sông Việt Nam nơi nào cũng đẹp, cũng cuốn hút hồn người. Từ vùng địa đầu Tổ quốc:

“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em.
Đến Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?”

Đến dải đất miền Trung sơn thủy hữu tình:

“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ…”

Đến châu thổ đồng bằng miền Tây Nam Bộ phì nhiêu, màu mỡ:

“Ruộng Cửu Long cò bay thẳng cánh
Sông Cửu Long lấp lánh cá tôm”

Giang sơn gấm vóc ấy có được là do bao thế hệ đổ mồ hôi, xương máu xây đắp và bảo vệ. Chính vì thế mà truyền thống yêu nước, bất khuất chống ngoại xâm, truyền thống cần cù lao động, truyền thống đoàn kết, nhân ái… của dân tộc Việt Nam là rất đáng tự hào.

Qua ca dao – dân ca, hình ảnh quê hương với lũy tre, đồng lúa, cây đa, bến nước, sân đình cùng những mái rạ đơn sơ đã trở nên thiêng liêng đối với mỗi người dân đất Việt. Dẫu đi đâu, về đâu, dẫu sống ở phương trời nào lòng người cũng thương, cũng nhớ:

“Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”

Nhiều bài học đạo lý được nhân dân ta đưa vào trong ca dao – dân ca để dạy dỗ, giáo dục con cháu từ thuở ấu thơ, nhắc nhở con cái phải hiếu thảo với ông bà, cha mẹ:

“Con người có tổ có tông,
Như cây có cội như sông có nguồn”

Hoặc:

“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”

Khuyên anh em phải hòa thuận, thương yêu:

“Anh em như thể tay chân,
Rách lành đùm bọc khó khăn đỡ đần”

Khuyên trai gái yêu nhau phải biết vượt qua mọi trở lực để đến với tình yêu đích thực:

“Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua”

Khuyên vợ chồng phải thủy chung, son sắt:

“Rủ nhau xuống biển mò cua,
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng.
Ai ơi chua ngọt đã từng,
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau”

Khuyên bạn bè phải đối xử trân trọng, trước sau gắn bó:

“Bạn bè là nghĩa tương tri,
Sao cho sau trước một bề mới yên”

Khuyên mọi người biết đùm bọc, sẻ chia lúc khó khăn, hoạn nạn:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

Bên cạnh những câu ca dao – dân ca nói về tình yêu quê hương, đất nước, con người… là những câu thể hiện tâm sự đắng cay, buồn tủi trước thân phận nghèo khó, bất hạnh của người lao động trong xã hội phong kiến đầy áp bức, bất công. Đời sống vật chất thiếu thốn cộng với những nỗi cơ cực do giai cấp bóc lột gây nên là nguyên nhân phát sinh ra những câu hát được phổ biến rộng rãi trong dân gian:

“Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi kiếm mồi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dẫu kêu ra máu có người nào nghe ?
Thương thay con hạc đầu đình,
Muốn bay không cất nổi mình mà bay”

Có thể nói ca dao – dân ca là bức tranh toàn cảnh về đời sống xã hội của Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Sở dĩ ca dao – dân ca có sức sống lâu bền chính là nhờ những đặc điểm nghệ thuật độc đáo của nó. Trước hết phải nói đến thể thơ. Phần lớn ca dao sáng tác theo thể thơ lục bát (sáu – tám) và song thất lục bát (bảy – bảy – sáu – tám). Những thể thơ này có cách gieo vần dễ thuộc, dễ nhớ, dễ lưu truyền. Ngoài ra còn có dạng lục bát biến thể, số lượng chữ trong câu thay đổi những quy luật về vần và thanh điệu thì vẫn giữ nguyên. Ví dụ:

“Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá về đồng ăn cua”

Những hình ảnh so sánh và ẩn dụ trong ca dao đều được lấy từ thực tế cuộc sống lao động của nông dân nơi đồng ruộng, xóm làng; từ phong cảnh thiên nhiên quen thuộc, hữu tình. Vì thế mà nó dễ đi vào lòng người và gây xúc động sâu xa.

Đặc điểm thứ ba là ngôn ngữ của ca dao – dân ca rất giản dị, hồn nhiên và đậm chất địa phương. Tuy gần với ngôn ngữ thơ ca nhưng ca dao, dân ca vẫn mang hơi hướng của lời nói thường ngày trong cách dùng từ, đặt câu, diễn ý. Những thành ngữ, tục ngữ, lối chơi chữ thông minh, dí dỏm cũng được đưa vào ca dao – dân ca một cách nhuần nhị và khéo léo.

Ca dao – dân ca là tấm gương phản chiếu đời sống muôn màu muôn vẻ của dân tộc Việt Nam; là nền tảng vững chắc để nền văn học viết kế thừa và phát triển. Ca dao – dân ca có tác dụng rất lớn trong việc khẳng định bản chất giàu và đẹp của tiếng Việt – sản phẩm tinh thần vô giá mà tổ tiên đã để lại cho con cháu đời đời.

Thuyết minh về thể loại Ca dao - Mẫu 2

Ca dao ra đời từ rất sớm và lưu truyền cho đến ngày nay. Ca dao đã thấm vào ta qua những làn điệu quê hương gần gũi, thân quen, những lời ru thắm thiết, đậm chất trữ tình.

Ca dao là một trong những thể loại chủ yếu của nền văn học dân gian Việt Nam. Đó là những sáng tác trữ tình dân gian diễn tả đời sống nội tâm của con người. Ca dao là nguồn sữa tinh thần nuôi dưỡng trẻ thơ qua lời hát ru, là hình thức trò chuyện tâm tình của các chàng trai cô gái, là tiếng nói biết ơn, tự hào về công đức của tổ tiên và anh linh của những người đã khuất, là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hay lòng hân hoan của người lao động, trong gia đình, xã hội. Dựa vào cung bậc tình cảm ấy ca dao được chia làm ba loại.

Loại đầu tiên là tiếng hát yêu thương, tình nghĩa, ca dao bộc lộ tình sâu nghĩa nặng đối với xóm làng, quê hương, đất nước, đối với cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè và dạt dào nhất là tình cảm lứa đôi. Trong suốt chiều dài lịch sử, khắp chiều rộng không gian đất nước, đâu đâu cũng đều vang lên những câu ca về cảnh núi rừng hùng vĩ, cảnh non xanh nước biếc, những sản vật phong phú của mỗi miền:

“Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan
Cao nhất là núi Lam Sơn
Có ông Lê Lợi trong ngàn tiến ra”

Ca dao nói về tình cảm gia đình, tình yêu lứa đôi rất trong sáng, hồn nhiên, tha thiết:

“Con người có tổ có tông
Như cây có cội như sông có nguồn”

*

“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”

Trong ca dao yêu thương, tình nghĩa hiện lên hình ảnh con người Việt Nam lạc quan, yêu đời, cần cù trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh, nhân ái, vị tha, giàu đức hi sinh trong quan hệ giữa người với người... Ca dao thể hiện những phẩm chất tốt đẹp đó của người Việt Nam và hướng con người Việt Nam đến cái chân, cái thiện, cái mỹ trong cuộc sống

Loại thứ hai là ca dao than thân ra đời từ cuộc sống làm ăn vất vả, cực nhọc và bị áp bức nặng nề của người dân trong xã hội cũ. Ca dao than cho cảnh đè nén, áp bức:

“Thương thay thân phận con rùa
Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia”

Đặc biệt là tiếng than của người phụ nữ chịu nhiều bất công do chế độ nam quyền và lễ giáo phong kiến gây ra:

“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Loại thứ ba là ca dao hài hước châm biếm: Cùng với truyện cười, về sinh hoạt, ca dao hài hước châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười mua vui, giải trí, phê phán những thói hư tật xấu hay những người đáng cười trong xã hội:

“Ăn thì ăn những miếng ngon
Làm thì chọn việc cỏn con mà làm”

Ca dao phong phú trong cách cấu tứ và xây dựng hình tượng. Thể loại được dùng nhiều trong ca dao là thể lục bát, song thất lục bát và các thể vãn. Mỗi bài ca dao thường có hai dòng thơ lục bát nên kết cấu đơn giản, ngắn gọn. Sức hấp dẫn ở ca dao là ở âm điệu, vừa phong phú, vừa thanh thoát và ở lời ca dao giàu hình ảnh. Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, nói quá,... tạo ra những hình ảnh gợi cảm, mở rộng trường liên tưởng sâu xa. Nghệ thuật so sánh ví von đã tạo nên những hình ảnh truyền thống độc đáo trong ca dao: cây đa - bến nước - con đò; trúc - mai, con cò, chiếc cầu, ...Có thể nói ca dao dùng lời ăn tiếng nói của nhân dân để chuyển tải tâm tư, tình cảm của nhân dân.

Chúng ta đã đi qua hành trình ca dao Việt Nam đẹp đẽ, để rồi ca dao vẫn khắc dấu trong tâm hồn mỗi chúng ta. Phải biết yêu câu ca dao, thương lời ru của mẹ, hát những khúc dân ca chân chất, ngọt ngào để thêm yêu Tổ quốc mình, để vươn ra văn hoá toàn cầu mà giữ vững bản sắc dân tộc Việt.

Thuyết minh về thơ lục bát

Kho tàng thơ văn Việt Nam có rất nhiều những tác phẩm đặc sắc, từ nội dung cho đến từng thể loại. Và khi nhắc riêng đến thi ca Việt Nam thì chúng ta không thể không nhắc đến những bài thơ đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người như Truyện Kiều của Nguyễn Du hay cho đến các câu ca dao được bà, được mẹ đưa vào mỗi giấc ngủ.

Tất cả từng câu từng chữ như mang một giai điệu khác nhau và khi được kết hợp bằng thể lục bát thì chúng như hòa vào làm một, thật nhịp nhàng và hoàn hảo, nhưng lại gần gũi, mộc mạc, chân chất như chính hơi thở cuộc sống. Lục bát là phương tiện phổ dụng để người Việt giải tỏa tâm sự, kí thác tâm trạng, thăng hoa tâm hồn.Gắn với tiếng Việt, gắn với hồn Việt, thơ lục bát đã thuộc về bản sắc dân tộc này.Thật tự hào mỗi khi nhắc đến thể thơ của dân tộc là nhắc đến lục bát.

Có rất nhiều nhà nghiên cứu đã đi tìm câu trả lời nhưng đây vẫn là câu hỏi chưa có câu trả lời chính xác, chỉ biết là đã từ rất lâu rồi. Văn hóa đặc trưng của người Việt là văn hóa lúa nước, gắn liền với lao động sản xuất nên luôn có những cách sáng tạo để quên đi nỗi nhọc nhằn sớm hôm. Họ thường vừa cùng nhau làm việc trên đồng, vừa cùng nhau sáng tạo thi ca. Đơn giản chỉ là thể hiện những ước mong giản đơn:

“Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng”

Đơn vị cơ bản của thơ lục bát gồm một cặp câu: câu lục (sáu tiếng) và câu bát (tám tiếng). Thông thường một bài thơ lục bát thường được mở đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát.Về số lượng câu trong một bài thơ lục bát không hề bị giới hạn nghiêm ngặt như các bài thơ đường luật. Một bài thơ lục bát có thể bao gồm hai hoặc bốn câu như:

“Anh em nào phải người xa,
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân.
Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy”.

Hoặc cũng có thể kéo dài ra hàng nghìn câu thơ, mà điển hình nhất mà ta có thể kể đến, đó chính là kiệt tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều) của đại thi hào Nguyễn Du ( gồm 3253 câu, trong đó gồm 1627 câu lục và 1627 câu bát). Số lượng câu thơ hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung và ý đồ mà nhà văn muốn truyền tải độc giả.

Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà.Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau, tạo ra “tiếng nhạc” cho cả bài thơ. Vần trong thơ lục bát có hai loại: vần lưng và vần chân. Hai dòng lục bát hiệp theo vần lưng có nghĩa là tiếng thứ sáu của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát. Nếu tiếp tục kéo dài thì tiếng thứ tám của câu bát lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục bên dưới. Đó là vần chân. Ví dụ:

“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Quy luật phối thanh của thơ lục bát khá linh hoạt, uyển chuyển. Thường thường thì ở câu lục các tiếng ở vị trí thứ hai, bốn, sáu là bằng (B), trắc (T), bằng (T), còn ở câu bát các tiếng ở vị trí thứ hai, bốn, sáu, tám là B-T-B-B.

“Trăm năm trong cõi người ta, (B-T-B)
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.(B-T-B-B)

Nhịp trong thơ lục bát phần lớn là nhịp chẵn, tạo nên âm điệu êm đềm, thong thả, thích hợp làm lời hát ru, hát ngâm.

Ví dụ:

Nhớ sao/ tiếng mõ/ rừng chiều
Chày đêm/ nện cối/ đều đều/ suối xa
(Việt Bắc – Tố Hữu )

Hay có thể đảo nhịp:

Em đi để lại chuỗi cười
Trong tôi vỡ… một khoảng trời pha lẽ
(Lời thề cỏ may – Phạm Công Trứ)

Thơ lục bát từ lâu đến nay luôn có một vị trí vững chắc trong lòng mỗi người dân đất Việt. Chúng ta dùng lục bát để bày tỏ những tâm tư tình cảm, những cung bậc cảm xúc của mình trong cuộc sống, công việc, tình bạn, tình yêu,… Chúng ta cũng đến với lục bát như là chốn an yên cho tâm hồn được tĩnh lặng sau những giông bão, khó khăn của cuộc đời, là được trở về với ấu thơ cùng câu hát ru chứa chan yêu thương của bà, của mẹ. Chẳng thể tìm ở đâu được loại thơ mà từng câu từng chữ đều mang giai điệu, đều chất chứa cảm xúc mà lại gần gũi, mộc mạc đến lạ.

Dù không rõ là bắt đầu từ khi nào nhưng lục bát là đứa con cưng của tiếng Việt, tiếng Việt đã nuôi lớn lục bát, đồng thời, chính lục bát cũng góp mình làm cho tiếng Việt hay hơn, đẹp hơn.

Thuyết minh truyện ngắn

Truyện ngắn là một thể loại văn học thuộc hình thức tự sự loại nhỏ. Đây là một trong những thể loại văn học vô cùng quan trọng.

Truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ, tập trung mô tả một mảnh cuộc sống, một biến cố, một hành động, một trạng thái nào đó trong cuộc đời nhân vật, thể hiện một khía cạnh của tính cách hay một mặt nào đó của đời sống xã hội. Truyện ngắn “Tôi đi học” của Thanh Tịnh ghi lại một biến cố quan trọng trong cuộc đời đứa trẻ khi em từ thế giới gia đình bước vào thế giới nhà trường. Trong “Chiếc lá cuối cùng” của O’ Hen-ri, đó là việc Giôn-xi bị ốm nặng nằm chờ chết; việc cụ Bơ-men lặng lẽ vẽ chiếc lá cuối cùng trong một đêm mưa tuyết dữ dội để cứu sống cô gái, và cụ đã ra đi sau khi hoàn thành kiệt tác ấy. Còn trong “Lão Hạc”, Nam Cao ghi lại mảnh đời cuối cùng của người nông dân già nghèo khổ, đơn độc, nhưng trước khi tìm về cái chết đã lo lắng thật chu đáo cho đứa con lúc nó trở về. Truyện ngắn thường có ít nhân vật và sự kiện như trong ba truyện ngắn trên.

Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một không gian, thời gian hạn chế. Nó không kể trọn vẹn một quá trình diễn biến một đời người mà chọn lấy những khoảnh khắc, những lát cắt của cuộc sống để thể hiện. Tôi đi học chỉ thu lại trong buổi tựu trường đầu tiên trên con đường từ nhà đến trường, trên sân trường, trong lớp học; Lão Hạc chỉ là khoảnh khắc cuối đời của nhân vật từ nhà của lão sang nhà ông giáo; Chiếc lá cuối cùng được kể lại trong những ngày Giôn-xi ốm nằm ở căn phòng nhỏ có chiếc cửa sổ trông ra cây thường xuân.

Kết cấu truyện ngắn thường là sự sắp đặt những đối chiếu, tương phản để làm nổi bật chủ đề, như sự tương phản giữa tình mẹ con và những tình cảm mới mẻ đối với nhà trường, thầy giáo, bạn bè trong tâm trạng đứa trẻ (Tôi đi học); giữa cuộc sống nghèo khổ với cái chết đau đớn với tình yêu thương lo lắng cho đứa con của lão Hạc (Lão Hạc), giữa sự trở về với cuộc sống của Giôn-xi và sự ra đi của cụ Bơ-men, giữa chiếc lá thường xuân đã rụng và chiếc lá cuối cùng vẫn còn mãi mãi trên tường (Chiếc lá cuối cùng).

Những đặc điểm trên đây đã khiến cho dung lượng truyện ngắn thường ngắn. Nhưng không phải vì thế mà truyện ngắn không đề cập tới những vấn đề lớn của cuộc đời như Lão Hạc hay Chiếc lá cuối cùng. Và nếu đọc các tác phẩm của các bậc thầy trong thể loại này, ta càng thấy rõ điều đó.

Như vậy truyện ngắn là một thể loại văn học hiện đại. Ngày nay nó đã và đang phát huy được ưu thế và đóng góp không nhỏ vào thành tựu của văn học Việt Nam thế kỉ XX, XXI và mãi về sau.

Thuyết minh thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật

Thơ Đường luật là một thể thơ có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này đã phát triển mạnh mẽ ở ngay chính quê hương của nó và có sức lan tỏa mạnh mẽ sang các khu vực lân cận, trong đó có Việt Nam. Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở năm điểm sau: Luật, niêm, vần, đối và bố cục. Về hình thức thơ Đường luật có nhiều loại, tuy nhiên thất ngôn bát cú được coi là một dạng chuẩn, là thể thơ tiêu biểu trong thơ ca trung đại.

Đường luật là luật thơ có từ đời Đường (618 - 907) ở Trung Quốc. Thơ thất ngôn bát cú Đường luật gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ. Về cách gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8 hiệp vần bằng với nhau. Ví dụ như trong bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan, quy tắc này được thể hiện một cách đặc biệt rõ ràng:

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”

Các từ hiệp vần với nhau là: tà, hoa, nhà, gia, ta. Việc này góp phần tạo nên cho bài thơ sự nhịp nhàng, bớt khô cứng của một thể thơ đòi hỏi niêm luật chặt chẽ. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa), đối tức là sự tương phản, cả sự tương đương trong cách dùng từ, cũng có thể thấy điều này rõ ràng nhất qua bài thơ Qua Đèo Ngang:

“Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

“Lom khom” đối với “lác đác”, “dưới núi” đối với “bên sông”, “ nhớ nước” đối với “thương nhà”…. Các phép đối rất chỉnh và rõ, kể cả về chữ và âm.Hay trong bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”

Phép đối giữa các câu cân xứng và rất chỉnh như “lặn lội” đối với “eo sèo”, “ quãng vắng” đối với “buổi đò đông”… Thơ Đường mà câu 3 không đối với câu 4, câu 5 không đối với câu 6 thì gọi là “thất đối”.

Bên cạnh đó thì thể thơ này cũng có luật bằng trắc rõ ràng, đặc biệt là nguyên tắc niêm. Những câu niêm với nhau tức là những câu có cùng luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Thường một bài thơ thất ngôn bát cú được niêm: câu 1 niêm với câu 8;câu 2 niêm với câu 3;câu 4 niêm với câu 5;câu 6 niêm với câu 7. Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là “vần với nhau”. Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là “vần chính”, những chữ có vần gần giống nhau gọi là “vần thông”. Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ. Về bố cục, một bài thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: Đề, thực,luận,kết. Hai cầu đầu tiên,câu một và câu hai là hai câu mở đầu,bắt đầu gợi ra sự việc trong bài. Hai câu thực là hai câu miêu tả, cần đối với nhau về cả thanh và nghĩa. Tiếp đến là hai câu luận, tức suy luận, yêu cầu tương tự như hai câu thực. Và cuối cùng là hai câu kết, khái quát lại sự việc, không cần đối nhau. Trong suốt thời kỳ phong kiến, thể thơ này đã được dùng cho việc thi tuyển nhân tài cho đất nước. Có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này cũng được Việt Nam tiếp thu và sử dụng khá phổ biến, có nhiều bài thơ khá nổi tiếng thuộc thể loại này. Đặc biệt khi Thơ mới xuất hiện, bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng – trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.

Đây là một thể thơ khá phổ biến trong nền Văn học Trung đại của Việt Nam. Nhiều bài thơ nổi tiếng được sáng tác bằng thể thơ này đã góp phần thể hiện tư tưởng, tình cảm của nhà thơ.

.....

>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!

Chia sẻ bởi: 👨 Đỗ Duyên
73
  • Lượt tải: 399
  • Lượt xem: 108.924
  • Dung lượng: 560,7 KB
Tìm thêm: Văn mẫu lớp 9
Sắp xếp theo

    Chủ đề liên quan