Văn mẫu lớp 9: Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều 3 Dàn ý & 20 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Đoạn trích Chị em Thúy Kiều của Nguyễn Du đã khắc họa thành công vẻ đẹp của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn trong xã hội xưa. Với 20 bài Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều hay nhất dưới đây, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn.

Vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của nàng Kiều trong đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" đã để lại trong lòng người đọc bao ấn tượng khó phai nhòa. Với 20 bài phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều đạt điểm cao dưới đây, hy vọng sẽ giúp các em ngày càng học tốt môn Văn 9.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều trong Chị em Thúy Kiều

Dàn ý phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều

1. Mở bài:

  • Giới thiệu về "Truyện Kiều" và tác giả Nguyễn Du.
  • Giới thiệu đoạn trích "Chị em Thúy Kiều".
  • Khái quát về vẻ đẹp của Thúy Kiều trong đoạn trích "Chị em Thúy Kiều".

2. Thân bài:

a) Vẻ đẹp về nhan sắc:

  • Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Vân trước để làm đòn bẩy nhấn mạnh vẻ đẹp của Kiều.
  • "Làn thu thủy": Đôi mắt xanh, trong vắt như làn nước mùa thu.
  • "Nét xuân sơn": Đôi lông mày cong, đẹp như dáng núi mùa xuân.
  • "Hoa ghen", "liễu hờn": Thiên nhiên cũng phải ghen tị trước sắc đẹp của nàng -> Dự cảm, báo hiệu những điều chẳng lành sẽ ập đến, gợi số phận trắc trở, long đong.

=> Bút pháp ước lệ tượng trưng: Lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để mô tả vẻ đẹp của con người.

b) Vẻ đẹp trong tài năng:

  • Sự "thông minh" trời phú, học gì cũng đều tinh thông.
  • "Làu bậc ngũ âm": Thuộc tất cả các âm giai của nhạc cổ.
  • "Ăn đứt hồ cầm": Tiếng đàn của nàng còn hay hơn cả tiếng đàn của người Hồ - dân tộc sáng tạo ra chiếc đàn đó.
  • Nàng tự sáng tác ra khúc "Bạc mệnh" khiến người nghe cảm thấy bi thương, đau xót mỗi khi tiếng đàn được cất lên -> Tiếng đàn báo hiệu cuộc đời nàng.

=> Người con gái tài năng, tinh thông âm luật.

c) Nghệ thuật:

  • Nghệ thuật ước lệ tượng trưng, đòn bẩy.
  • Ngôn ngữ, hình ảnh gợi tả.
  • Các biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa,...

3. Kết bài:

  • Nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều.

....

Phân tích Vẻ đẹp Thúy Kiều ngắn nhất

Nguyễn Du là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ cũng như miêu tả nhân vật. Vẻ đẹp và tài năng của Thuý Kiều đã được ông miêu tả vô cùng chi tiết, đặc sắc ở đoạn trích "Chị em Thuý Kiều". Nguyễn Du đã khéo léo khắc hoạ vẻ đẹp của Thuý Vân trước để làm đòn bẩy miêu tả chi tiết về vẻ đẹp của Kiều. Vậy nên trước hết ta thấy Kiều có một nhan sắc vô cùng tuyệt mỹ.

Thông qua bút pháp ước lệ quen thuộc, Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của Kiều. Ông không miêu tả cụ thể những đường nét khuôn mặt của Kiều như với Thuý Vân mà Nguyễn Du đã tập trung miêu tả đôi mắt của nàng. Đây là nghệ thuật "điểm nhãn" cho nhân vật. Đôi mắt của Kiều qua lời miêu tả của nhà thơ hiện lên như một hồ nước mùa thu sâu thăm thẳm, trong trẻo, tĩnh lặng, đôi lông mày mềm mại như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều khiến cho tạo hoá, thiên nhiên phải "ghen", phải "hờn". Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hoá "hoa, liễu" ở đây biết "ghen, hờn" cùng với đó là thành ngữ để chỉ những vẻ đẹp làm khuynh đảo quốc gia "nghiêng nước nghiêng thành"để gợi tả vẻ đẹp của Kiều. Nhưng vẻ đẹp đó của nàng lại là những tín hiệu không lành, nó dự báo cuộc đời hồng nhan đầy truân chuyên mà Kiều sẽ phải trải qua. Không chỉ có nhan sắc "chim sa cá lặn", Kiều còn có tài năng vượt trội hơn người:

"Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm".

Những tiểu thư trong xã hội phong kiến chỉ cần biết đủ về cầm kỳ thi hoạ đã xứng danh là tài nữ trong thiên hạ. Nhưng với Kiều, nàng không chỉ biết mà còn vô cùng tài năng, vô cùng xuất sắc, đặc biệt là tài đàn và soạn nhạc. Cùng với đó, nàng còn có sự thông minh thiên phú. Nàng không chỉ thuộc "làu bậc ngũ âm" trong nhạc cổ mà còn chơi được cả loại đàn tỳ bà của người Hồ - vốn là loại đàn vô cùng khó học. Khúc nhạc "Bạc mệnh" mà nàng soạn ra khiến cho ai nghe cũng đều phải rơi lệ, sầu thương "não nhân". Những điều đó đã gợi lên một trái tim đa sầu đa cảm, gợi lên một số kiếp bi kịch, éo le bởi như Nguyễn Du đã từng nói: "Chữ tài liền với chữ tai một vần".

Tóm lại vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Kiều đều tuyệt mỹ hơn người, vượt qua cả những khuôn khổ thông thường của tạo hoá. Nó là dự cảm cho số phận của một con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Nguyễn Du đã sử dụng rất khéo léo nghệ thuật ước lệ, điểm nhãn cùng với các biện pháp như so sánh, nhân hoá, đòn bẩy để miêu tả vẻ đẹp và tài năng vô cùng tuyệt mỹ của Kiều. Qua đó ta cũng thấy được cảm hứng ca ngợi những vẻ đẹp và tài năng của con người - một trong những giá trị nhân đạo sâu sắc mà Nguyễn Du thể hiện.

Phân tích Vẻ đẹp Thúy Kiều ngắn gọn

Ở phần đầu tiên của “Truyện Kiều” – Gặp gỡ và đính ước, sau phần giới thiệu về gia cảnh của gia đình Thúy Kiều, tác giả đã nói về vẻ đẹp của chị em Kiều, Vân dưới bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển. Bằng tấm lòng trân trọng, ngợi ca, Nguyễn Du sử dụng những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân.

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Bốn câu thơ mà bao quát toàn bộ vẻ đẹp của chị em Kiều, từ Hán Việt “tố nga” vốn được dùng để chỉ những người con gái đẹp tinh tế đã được tác giả đưa vào trong thơ để gọi Kiều và Vân. Hai chị em được ví von có cốt cách thanh cao như hoa mai, có tâm hồn trong sáng như tuyết trắng. Mỗi người có vẻ đẹp riêng và đều đẹp một cách toàn diện. Từ cái nhìn bao quát ấy, nhà thơ đi miêu tả từng người. Bốn câu thơ tiếp theo được viết ra bởi hàng loạt bút pháp nghệ thuật, ước lệ tượng trưng, liệt kê, nhân hoá để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân: tròn đầy, trang trọng, quý phái, phúc hậu.

Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Đó là vẻ đẹp có sự hòa hợp với tự nhiên, như ngầm dự báo trước tương lai êm ấm, bình lặng trong cuộc đời nàng.

Khi người đọc đang mải mê chiêm ngưỡng cái đẹp mà cả thiên nhiên cũng phải nhún nhường của Vân thì vẫn không khỏi thắc mắc, vì sao Nguyễn Du lại tả về em trước khi tả chị? Bốn câu thơ tiếp sau nữa đã trả lời cho câu hỏi đó của người đọc:

Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Đây hoàn toàn là chủ ý của tác giả, thủ pháp đòn bẩy, tả khách hình chủ, tả Thuý Vân trước rồi mới tả Thuý Kiều. Vân đã đẹp, Kiều càng muôn phần đẹp hơn. Nói về Vân để làm bật lên Kiều. Thuý Kiều lại có nhan sắc “ sắc sảo mặn mà”. Kiều “sắc sảo” về trí tuệ, “mặn mà” về tâm hồn. Đặc biệt, vẻ đẹp ấy thể hiện qua đôi mắt “làn thu thuỷ nét xuân sơn”. Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt Kiều trong sáng, long lanh như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân. Vân đã đẹp là thế mà Kiều còn nổi trội hơn, vượt lên trên Vân cả về sắc, về tài và chiều sâu tâm hồn. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân được thiên nhiên tạo hoá sẵn sàng nhường nhịn thì với Thuý Kiều, vẻ đẹp ấy lấn át cả thiên nhiên, khiến cho thiên nhiên ấy phải đố kị, ghen ghét.

Đã khoác trên mình dung nhan nghiêng nước nghiêng thành, Kiều lại mang cả cái tài năng của nàng cũng may ra mới có người sánh được, Nguyễn Du viết:

“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai,
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm”

Thúy Kiều là một người đẹp về sắc, tài vì nhiều ngón nghề cầm, kỳ, thi, họa và tình thì sâu đến mức có thể sáng tác một thiên “Bạc mệnh”. Thuý Kiều thông minh do thiên bẩm nên tất cả những môn nghệ thuật: thi hoạ, ca ngâm, nàng đều rất điêu luyện, đặc biệt là tài gảy đàn: “Cung thương làu bậc ngũ âm”. Nàng không chỉ giỏi về âm luật mà còn biết sáng tác, kỹ thuật thanh nhạc cùng với cái tình thăm thẳm đã làm cho bao người nghe khúc “Bạc mệnh” phải rơi lệ.

Con người Thúy Kiều hội tụ cả sắc, tài và tình. Cái nào cũng ở mức hơn người ấy báo hiệu một số phận đầy trắc trở, éo le. Bởi vì, “Chữ tài liền với chữ tai một vần”.

Kết thúc đoạn miêu tả về nhan sắc, tài năng và đức hạnh của hai “tố nga” nhà họ Vương là hai câu thơ viết về lối sinh hoạt gia giáo, nề nếp, tránh xa những chuyện thị phi ong bướm ngoài đời của họ.

“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, chị em Thúy Kiều hiện lên trong tưởng tượng của người đọc là những trang tuyệt sắc giai nhân. Đồng thời cũng là những dự báo về số phận của từng người, bật lên sau những ý thơ là cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Đó cũng là một nét đặc trưng xuyên suốt “Truyện Kiều”.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều trong Chị em Thúy Kiều

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều - Mẫu 1

Xưa nàng Đát Kỉ lấy sắc đẹp làm cho Trụ Vương mê mị, đắm say không sao kể xiết, khiến cho nhà Thương vì thế mà sụp đổ. Tây Thi đem sắc đẹp làm mê hoặc Ngô Vương là Ngô Phù Sai, giúp Việt Vương Câu Tiễn phục quốc, khiến nước Ngô hùng mạnh phút chốc bị diệt vong. Cha con Đổng Trác cũng bởi muốn có mĩ nhân Điêu Thuyền mà tàn sát lẫn nhau, bánh xe lịch sử cũng vì thế chuyển hướng. Các nàng chỉ bằng sắc đẹp mà có thể khiến cho lòng người mê mị, làm thay đổi triều cương. Bởi thế, nhân gian thường gọi các nàng là yêu cơ.

Nếu lấy vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh của đại thi hào Nguyễn Du để so sánh với vẻ đẹp của ba nàng ấy thì có lẽ Thúy Kiều vượt trội hơn nhiều lần. Nếu lấy sự ảnh hưởng của Thúy Kiều đến con người hay triều chính thì cũng không thua kém gì.

Thi hào Nguyễn Du đã dành những mĩ từ cao quý nhất để tôn vinh vẻ đẹp của người con gái tài sắc vẹn toàn, hiếu thuận bậc nhất trong trời đất. Thúy Kiều mang một vẻ đẹp toàn bích, trác viêt, vượt qua mọi giới hạn. Để khắc họa được bức chân dung phi thường ấy, Nguyễn Du đã lần lượt tạo dựng qua các bước. Trước hết ông tạo tác vẻ đẹp của Thúy Vân, một vẻ đẹp “mười phân vẹn mười”, thực hiếm có ở trên đời:

“Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

Lấy vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền tảng, Nguyễn Du nâng vẻ đẹp của Thúy Kiều lên làm nhiều lần hơn thế:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”.

Sắc sảo (thiên về hình thức) là vẻ đẹp ưu tú, thu hút cái nhìn của người khác. Mặn mà (thiên về trí tuệ và tâm hồn) là vẻ đẹp chinh phục lòng người. Vẻ đẹp của nàng khiến cho lòng người đố kị, đất trời hờn ghen. Cuối cùng, để khẳng định chắc chắn vẻ đẹp ấy, Nguyễn Du đã tôn vinh đến tột bậc:

“Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.

Điển tích “nghiêng nước nghiêng thành” xuất phát từ bài hát của Lí Diên Niên đời Hán Vũ Đế ca ngợi sắc đẹp của Hiếu Vũ Hoàng Hậu.

“Bắc phương hữu giai nhân
Tuyệt thế nhi độc lập.
Nhất cố khuynh nhân thành;
Tái cố khuynh nhân quốc
Khởi bất tri
Khuynh thành dữ khuynh quốc
Giai nhân nan tái đắc”.

Đến đời Đường Minh Tông, thi tiên Lý Bạch khi làm thơ ca ngợi sắc đẹp của Dương Quý Phi cũng dùng tích ấy:

Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
Thường đắc quân vương đới tiếu khan.

Nghĩa:

Danh hoa nghiêng nước sánh đôi vui,
Để xứng quân vương một nụ cười.

Xét về tài năng, nàng thông thạo cả cầm, kì, thi họa, thuộc lòng âm luật; lại có tài sáng tác, đã viết nên khúc Bạc mệnh làm não lòng người. Xét về sắc đẹp, Vẻ đẹp của Thúy Kiều không những có thể làm nghiêng nước nghiêng thành mà là duy nhất trên đời này không thể có người thứ hai. Giai nhân tuyệt sắc xưa nay xem như lu mờ trước ánh sáng ấy.

Có thể nói, hội tụ ở nhân vật Thúy Kiều là tất cả những gì tốt đẹp nhất vốn có ở con người và vũ trụ. Sự kết hợp hoàn hảo giữa tài năng, sắc đẹp và đức hạnh khiến Thúy Kiều trở thành một nhân vật vượt xa sức tưởng tượng của con người. Có thể gọi nàng là tuyệt thế giai nhân thiên cổ vậy.

Lần thứ nhất, Kiều khiến cho Kim Trọng, một thư sinh vốn là người “Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”, say mê nàng đến tận cùng mà quên chuyện đèn sách, bạo gan chuyển phòng trọ đến ở gần nhà nàng để tiện gặp gỡ hẹn hò. Tình yêu ngang trái, khiến hai người tan câu thề ước, đôi đường ly biệt. Đến suốt cuộc đời, Kim Trọng cũng không thể nào quên được nàng.

Lần thứ hai, phải chăng, bởi ghen tức nhà Vương ông có hai cô con gái xinh đẹp mà kín cổng cao tường, bọn sai nha đã lập mưu vu họa, khiến cho nhà tan của nát, Vương ông cùng con là Vương Quan bị trói vào đại lao?

Lần thứ ba, Thúc sinh (thư sinh họ Thúc), một khách phong lưu, đa tình say mê Kiều đến tột độ. Thúc sinh là người tuy tự do, phóng khoáng nhưng lại rất sợ vợ của chàng là Hoạn Thư. Hoạn Thư cũng quản thúc chàng rất chặt chẽ. Tuy sợ vợ đến thế nhưng vì đắm say vẻ đẹp Thúy Kiều đến đê mê mất trí:

“Trăm nghìn đổ một trận cười như không”.

Vẻ đẹp của Thúy Kiều như đổ một liều mê độc vào tâm trí Thúc Sinh khiến chàng “một tỉnh mười mê” đến nỗi liều lĩnh chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và đưa về sống như vợ chồng ở nhà riêng. Sự việc bại ộ khiến cho Thúy Kiều bị Hoạn Thư cho người bắt về và hành hạ vô cùng tàn khốc.

Lần thứ tư, Từ Hải vốn là một bậc anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, nghe tiếng Kiều đã không ngần ngại tìm đến:

“Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng”.

Cần chi nhiều lời đưa đẩy, sau cuộc hàn thuyên tâm sự, đôi bên rõ ý, Từ Hải đã mau chóng chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và chính thức cưới nàng làm vợ, giúp nàng báo ân, báo oán hết sức chu toàn. Phải đâu khí phách anh hùng hành động quyết đoán mau lẹ mà bởi trước bậc hồng nhan kì sắc, trái tim anh hùng đã sớm lay động, bị chinh phục tức thời. Cũng bởi vì quá yêu Kiều mà Từ Hải đã có hành động sai lầm lớn nhất cuộc đời dũng tướng, thỏa hiệp đầu hàng Hồ Tôn Hiến và nhận lấy một kết cục bi thảm.

Lần thứ năm, Hồ Tôn Hiến, một đại công thần triều đình, sau khi giết chết Từ Hải đã bất chấp đạo lí, bắt Kiều hầu rượu, đàn hát và làm nhục nàng vì quá say mê vẻ đẹp yêu kiều diễm lệ ấy. Một đại công thần uy dũng thế ấy, tôn nghiêm thế ấy mà trước mĩ nhân:

“Nghe càng đắm, ngắm càng say
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”.

Để tránh bị điều tiếng, gièm pha, Hồ Tôn Hiến đã gã nàng cho một thổ quan.

Sau mười lăm năm lưu lạc, trầm luân dâu bể, chịu không biết bao ô nhục, khổ đau, Thúy Kiều được đoàn viên với gia đình, chấm dứt duyên tình trần thế. Có lẽ, đó cũng là lựa chọn của Nguyễn Du. Ông cho nàng ẩn danh nơi cô tịch để sắc đẹp ấy không còn gây thêm tai họa nào nữa chăng?

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều - Mẫu 2

Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của truyện thơ, một thiếu nữ tài, sắc vẹn toàn đã được thi hào khắc họa một cách thần tình, mỹ lệ.

Trong bài thơ Kính gửi Cụ Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu viết:

Tiếng thơ ai động đất trời,
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày...

Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc ta. Truyện Kiều là kiệt tác của nền thi ca cổ dân tộc sáng ngời tinh thần nhân đạo, về phương diện nghệ thuật, áng thơ này là mẫu mực tuyệt vời về ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, tả tình, tự sự v.v... đem lại cho nhân dân ta nhiều thú vị văn chương.

Đoạn thơ giới thiệu chị em Thúy Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong Truyện Kiều. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của truyện thơ, một thiếu nữ tài, sắc vẹn toàn đã được thi hào khắc họa một cách thần tình, mĩ lệ.

Đoạn thơ gồm 24 câu: 4 câu đầu giới thiệu chung hai chị em Kiều là hai ả tố nga của ông bà Vương Viên ngoại, 4 câu tiếp theo nói về sắc đẹp Thúy Vân, 12 câu tiếp theo nói về tài sắc Thúy Kiều, 4 câu cuối đoạn ca ngợi đức hạnh của hai chị em Kiều.

Hai chị em Kiều mang vẻ đẹp thanh tao, trinh trắng như "mai", như tuyết", mỗi người một vẻ đẹp riêng, toàn thiện, toàn mỹ:

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Sắc đẹp của Thúy Vân là sắc đẹp của một thiếu nữ "đoan trang", "trang trọng khác vời"- rất quý phái: khuôn mặt "đầy đặn" tươi sáng như vầng trăng, mắt phượng mày ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong như ngọc.. Còn gì đẹp hơn về mái tóc, màu da của nàng? - "Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da". Nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả sắc đẹp Thúy Vân, tạo nên những hình ảnh ẩn dụ đầy gợi cảm. Tả Thúy Vân trước, tả Thúy Kiều sau là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du để khẳng định Kiều là một giai nhân tuyệt thế:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.

Dung nhan Thúy Kiều đẹp lắm "nghiêng nước nghiêng thành". Mắt đẹp trong như sắc nước mùa thu, lông mày thanh tú xinh xắn như dáng núi mùa xuân; một vẻ đẹp đằm thắm, xanh tươi mơn mởn khiến cho "Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh". Ngòi bút tả người của thi hào biến hóa, đa dạng: kết hợp thần tình các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, thậm xứng với sự vận dụng tinh tế thi liệu cổ (nghiêng nước nghiêng thành) tạo nên những vần thơ đẹp gợi cảm. Hình bóng giai nhân được phác họa đôi ba nét chấm phá ước lệ nhưng hết sức thần tình, để lại cho người đọc bao cảm xúc, trân trọng:

Làn thu thủy, nét xuân sơn.
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành.

Hóa công như đã ưu đãi dành cho Kiều tất cả "Sắc đành đòi một, tài đành họa hai". Thông minh bẩm sinh "tính trời", tài hoa lỗi lạc xuất chúng: thơ tài, tài họa giỏi, đàn hay; môn nghệ thuật nào nàng cũng tuyệt giỏi, cũng thành "nghề", "ăn đứt" thiên hạ:

Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Nguyễn Du đã không tiếc lời ca ngợi Thúy Kiều bằng một số từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối: vốn sẵn tính trời, pha nghề, đủ mùi... lầu bậc... nghề riêng ăn đứt...

Khi tả tài sắc Thúy Kiều, thi hào không chỉ nói lên cái tuyệt vời của hiện tại mà còn hàm ý dự báo về tương lai của nàng, sắc đẹp kiều diễm "hoa ghen... liễu hờn...” với bản đàn "Bạc mệnh" mà nàng sáng tác ra "lại càng não nhân" như gợi ra trong tâm hồn chúng ta một ám ảnh "định mệnh" mà nhà thơ đã khẳng định: "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen",... "Chữ tài liền với chữ tai một vần",... Gần hai thế kỷ nay, bức chân dung giai nhân này qua đoạn thơ Chị em Thúy Kiều đã để lại trong trái tim hàng triệu con người Việt Nam một sự cảm mến nồng hậu, một sự phấp phỏng lo âu đối với người con gái đầu lòng của Vương ông. Đó là tài năng đích thực của Nguyễn Du về nghệ thuật tả người.

Đức hạnh là cái gốc của con người. Thúy Kiều không chỉ có tài sắc mà còn có đức hạnh. Nàng được hưởng một nền giáo dục theo khuôn khổ của lễ giáo, của gia phong. Tuy sống trong cảnh "phong lưu rất mực hồng quần", đã tới "tuần cập kê" nhưng nàng là một thiếu nữ có gia giáo, đức hạnh:

Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Tóm lại, Thúy Kiều là một nhân vật tuyệt đẹp trong Đoạn trường tân thanh. Thi hào Nguyễn Du với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ ca trác việt miêu tả Thúy Kiều bằng những vần thơ lục bát đẹp nhất. Ông đã dành cho nhân vật bao tình cảm yêu mến, trân trọng sâu sắc. Sự kết hợp tài tình bút pháp ước lệ tượng trưng, sử dụng sáng tạo các biện pháp tu từ, nhất là ẩn dụ so sánh, một ngôn ngữ thơ tinh luyện, hàm súc, hình tượng và gợi cảm để vẽ nên bức chân dung mỹ nhân bằng thơ sáng giá nhất trong nền văn học cổ nước nhà. Thúy Kiều mang một "lí lịch" ngoại tộc nhưng dưới ngòi bút thiên tài của thi hào Nguyễn Du, nàng xuất hiện với bao phẩm chất tốt đẹp, đậm đà bản sắc dân tộc. Vẻ đẹp nhân văn toát lên từ hình ảnh Thúy Kiều là vẻ đẹp văn chương của đoạn thơ này.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều - Mẫu 3

Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của cả sắc - tài - tình. Nhưng xét cho cùng thì tài hoa của Kiều cũng không vượt ra ngoài khuôn khổ quan niệm về tài năng của văn nhân, tài tử thời phong kiến.

Chân dung Thúy Kiều: Sau những câu thơ giới thiệu chung về hai chị em và vẻ đẹp riêng của Thúy Vân thì Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều xuất hiện:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành.
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.

Cũng giống như khi tả Thúy Vân, nhà thơ vẫn dùng bút pháp so sánh, ẩn dụ và ước lệ. Tác giả vẫn sử dụng cách gợi tả và những chuẩn mực thiên nhiên để làm đối tượng so sánh. Nét vẽ của thi nhân đã tập trung gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt, bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Cái sắc sảo của trí tuệ, cái mặn mà của tâm hồn đều liên quan tới đôi mắt. Hình ảnh ước lệ làn thu thủy (làn nước mùa thu) gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt; còn hình ảnh ước lệ nét xuân sơn (nét núi mùa xuân) lại gợi lên đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung.

Vẻ đẹp của Kiều là phi thường, lộng lẫy, không tạo nên sự hài hòa, êm đềm giữa con người với tự nhiên mà đến mức làm thiên nhiên, tạo hóa phải đố kị, ghen ghét: hoa ghen, liễu hờn. Hai động từ ghen và hờn có dụng ý đối chọi với nhan sắc của Thúy Kiều. Mức độ so sánh mạnh, gay gắt hơn so với hai từ thua và nhường. Điều đó chứng tỏ nhan sắc của Kiều đã vượt ra ngoài khuôn khổ ngoài tưởng tượng, ngoài quy luật của tự nhiên, khiến cho tạo hóa phải ganh ghét.

Vẻ đẹp của Thúy Kiều còn có sức lôi cuốn mạnh mẽ, làm nghiêng nước nghiêng thành, vẻ đẹp của Kiều không có thang bậc nào cao hơn để đánh giá, cho nên xếp hàng đầu, xếp thứ nhất. Câu thơ sắc đành đòi một tài đành họa hai đã khẳng định tuyệt đối sắc đẹp của Kiều đến mức độc nhất vô nhị, không ai có thể sánh nổi.

Nhưng không chỉ có nhan sắc mà Thúy Kiều còn là một cô gái thông minh và rất mực tài hoa:

Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.

Trí tuệ, tài năng của Thúy Kiều cũng được Nguyễn Du đẩy lên tới cực đoan, tuyệt đỉnh: vừa do trời phú, thiên bẩm vừa đa dạng, cái gì cũng giỏi, cũng hơn người. Không cần học hành gian khổ, lớn lên Kiều đã trở thành một giai nhân tuyệt sắc, một tài nữ hiếm thấy. Các từ ngữ tuyệt đối, cực đoan được sử dụng kế tiếp: vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, dầu, ăn đứt,...

Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, gồm đủ cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (làm thơ), họa (vẽ tranh). Đặc biệt, tài đàn của nàng đã là sở trường, năng khiếu (nghề riêng), vượt lên trên mọi người (ăn đứt). Cực tả cái tài của Kiều cũng là để ca ngợi cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn Bạc mệnh mà Kiều sáng tác chính là sự ghi tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm.

Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của cả sắc - tài - tình. Nhưng xét cho cùng thì tài hoa của Kiều cũng không vượt ra ngoài khuôn khổ quan niệm về tài năng của văn nhân, tài tử thời phong kiến.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều - Mẫu 4

Hình ảnh người phụ nữ từ lâu đã đi vào thi ca nhạc họa nuôi một nguồn cảm hứng dồi dào, bất tận. Mặc dù trong xã hội phong kiến "trọng nam khinh nữ", người phụ nữ ít có cơ hội xuất hiện trong các tác phẩm văn học nhưng đến thế kỉ XVI trở đi, người phụ nữ đã bước chân vào nền văn học trung đại Việt Nam một cách rất tự nhiên, rất chân thực. Chúng ta có thể kể đến một số tác phẩm như: "Truyền kì mạn lục" của Nguyễn Dữ, "Truyền kì tân phả" của Đoàn Thị Điểm, "Chinh phụ ngâm khúc" của Đặng Trần Côn... Tất cả các nhà văn, nhà thơ đều tập trung làm nổi bật lên phẩm chất tốt đẹp, số phận bi kịch, cuộc đời bất hạnh của người phụ nữ nhưng lại ít quan tâm tới việc khắc họa vẻ đẹp nhan sắc, tài năng độc đáo của nhân vật nữ giới. Tuy nhiên, đến với những trang thơ của Nguyễn Du qua tác phẩm "Truyện Kiều", mặc dù cũng khai thác đề tài bất hạnh của người phụ nữ đương thời nhưng Nguyễn Du vẫn đặc biệt chú trọng miêu tả khắc họa vẻ đẹp chân dung, nhan sắc, tài năng con người nhân vật. Và chính bút pháp tả người ấy đã góp phần không nhỏ tạo nên sự thành công của tác phẩm. Điều này được thể hiện qua hình tượng nhân vật Thúy kiều trong đoạn trích "Chị em Thúy Kiều".

Trước hết, bốn câu thơ đầu tiên, nhà thơ giới thiệu khái quát về vị trí, xuất thân và vẻ đẹp của Thúy Kiều:

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Đó là Thúy Kiều sinh ra trong một gia đình họ Vương, nàng là chị cả trong gia đình. Để giới thiệu về vẻ đẹp của nàng, nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ và ẩn dụ rất giàu sức gợi: cốt cách thì duyên dáng, yêu kiều, thanh tao như cây mai; phong thái tinh thần thì trong trắng, tinh khôi như tuyết. Đó là vẻ đẹp hoàn mỹ, toàn diện từ trong ra ngoài, từ dáng vẻ tới tâm hồn "mười phân vẹn mười". Như vậy, chỉ bằng bốn câu thơ đầu ngắn gọn, tác giả đã khái quát được những thông tin cần thiết của nhân vật, đồng thời làm nổi bật lên vẻ đẹp của Thúy Kiều. Từ đó, mở ra cảm xúc cho toàn bài, người đọc thấy được cảm hứng ngợi ca con người trong đoạn thơ.

Sau khi dựng lên chân dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân, nhà thơ tập trung bút lực vào miêu tả vẻ đẹp của Kiều trong sự đối sánh với vẻ đẹp của Vân:

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn

Vẻ đẹp của Kiều khác và hơn hẳn Vân cả về tài lẫn sắc. Đó là sự "sắc sảo" về trí tuệ; "mặn mà" về tầm hồn.

Trước hết là vẻ đẹp nhan sắc – ngoại hình của Kiều. Vẫn tiếp tục sử dụng thủ pháp ước lệ tượng trưng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của con người qua một loạt các hình ảnh: thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu, Nguyễn Du đã làm hiện vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt mĩ. Nhưng khi miêu tả Kiều, tác giả không miêu tả cụ thể chi tiết như ở Vân mà ngược lại, tác giả tập trung vào một điểm nhìn là đôi mắt “Làn thu thủy nét xuân sơn”: Đôi mắt sáng trong và sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân. Đây chính là lối vẽ "điểm nhãn" cho nhân vật. Bởi đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn con người. Và qua đôi mắt đó của Kiều, ta thấy được tâm hồn trong sáng, sâu thẳm và cuốn hút lạ thường của nhân vật. Vẻ đẹp nhan sắc của Kiều là vẻ đẹp vượt ra khỏi chuẩn mực của tự nhiên và khuôn khổ của người phụ nữ phong kiến nên: “Hoa ghen – liễu hờn” và thậm chí là nghiêng ngả cả thành quách, đất nước:

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Nghệ thuật nhân hóa (hoa ghen – liễu hờn) kết hợp với nghệ thuật nói quá (thành ngữ: Nghiêng nước nghiêng thành) vừa có tác dụng gợi tả vẻ đẹp của Kiều ; lại vừa có tác dụng dự đoán về số phận, cuộc đời của nàng. Bởi vẻ đẹp đó gợi lên mâu thuẫn, không hài hòa (khác với Vân: thua – nhường: hài hòa, bình yên) nên chắc chắn cuộc đời nàng sẽ truân chuyên, trắc trở: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần".

Tiếp đến là vẻ đẹp tài năng của Kiều. Nếu như khi tả Vân, nhà thơ chỉ chú trọng vào khắc họa vẻ đẹp nhan sắc mà không chú trọng tới miêu tả tài năng và tâm hồn thì khi tả Kiều, nhà thơ chỉ tả sắc một phần, còn lại dành phần nhiều vào tài năng:

Sắc đành đòi một tài đành họa hai

Chỉ một câu thơ mà nhà thơ đã nêu được cả sắc lẫn tài. Nếu như về sắc thì Kiều là số một thì về tài không ai dám đứng hàng thứ hai trước nàng. Tài năng của Kiều có thể nói là có một chứ không có hai trên đời. Vì được trời phú cho tính thông minh nên ở lĩnh vực nghệ thuật nào Kiều cũng toàn tài: cầm – kì – thi – họa. Tất cả đều đạt đến mức lí tưởng hóa theo quan niệm thẩm mĩ của lễ giáo phong kiến: “Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”. Đặc biệt tài năng của Kiều được nhấn mạnh ở tài đàn: “Cung thương lầu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”: nàng thuộc lòng các cung bậc và đánh đàn Hồ cầm (đàn cổ) thành thạo. Hơn thế, nàng còn giỏi sáng tác nhạc nữa: “Khúc nhà tay lựa nên chương/Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Mỗi nàng lần đánh đàn, nàng lại cất lên bài hát “Bạc mệnh” làm cho người nghe phải đau khổ, sầu não. Bài hát chính là tâm hồn, là bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều, biểu hiện một trái tim đa sầu đa cảm và cuộc đời éo le, bất hạnh.

Như vậy, qua việc phân tích ở trên, người đọc thấy được chân dung của nhân vật Thúy Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp khác người nên làm cho thiên nhiên phải ghen tị “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”; tài năng của Kiều vượt trội hơn người nên chắc chắn theo một quy luật thông thường của định mệnh “Chữ tài đi với chữ tai một vần” hay “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” nên cuộc đời Kiều là cuộc đời của một kiếp hồng nhan bạc mệnh, éo le và nghiệt ngã.

Đến đây chúng ta thấy được tài năng độc đáo của Nguyễn Du trong việc khắc họa chân dung nhân vật. Từ vẻ đẹp chân dung, nhà thơ thể hiện những dự cảm về tính cách, cuộc đời, số phận của nhân vật. Và mặc dù, ở đầu đoạn trích, tác giả giới thiệu Thúy kiều là chị, em là Thúy Vân nhưng sau đó, nhà thơ lại miêu tả chân dung nhân vật Vân trước, Kiều sau. Đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ trong việc tạo ra thủ pháp "đòn bẩy". Điều đó có tác dụng nhấn mạnh và làm nổi bật được vẻ đẹp độc đáo, vượt trội về cả sắc lẫn tài và tình của nhân vật Thúy Kiều. Vì thế, tuy cùng sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng khi miêu tả hai nhân vật nhưng chúng ta thấy được mức độ đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Nhà thơ chỉ dùng bốn câu để tả Vân, còn lại dành tận mười hai câu để tả Kiều; tác giả khi tả Vân chỉ tập trung tả nhan sắc nhưng khi tả Kiều thì "sắc đành đòi một, tài đành họa hai". Mặc dù vậy nhưng ở nhân vật nào cũng hiện lên rất sống động, cụ thể, chân thực, mang vẻ đẹp, tính cách, số phận khác nhau.

Khép lại đoạn thơ, Nguyễn Du dùng những lời lẽ đẹp để gợi ca cuộc sống của nàng:

Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Thúy Kiều sống trong một gia đình phong lưu, rất gia giáo và nàng đang đến cái tuổi búi tóc cài trâm, được phép thành gia, lập thất "tới tuần cập kê". Thành ngữ “Trướng rủ màn che” gợi tả một lối sống kín đáo, rất khuôn phép của con nhà gia giáo đàng hoàng . Vì thế, đối với những người đàn ông “ong bướm” (chỉ những người đàn ông tán tỉnh phụ nữ không có mục đích tốt đẹp) thì Thúy Kiều không bao giờ để tâm tới. Hai câu kết trong sáng, đằm thắm như che chở, bao bọc cho nàng. Nàng hiện lên như một bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh "êm đềm", chưa một lần tỏa hương vì ai đó.

Qua chân dung vẻ đẹp nhan sắc, tài năng của Thúy Kiều, chúng ta thấy được Nguyễn Du thực sự rất trân trọng, đề cao những giá trị vẻ đẹp của người phụ nữ. Những dự cảm về kiếp người tài hoa nhưng bạc mệnh là sự xuất phát từ tấm lòng cảm thông, xót thương con người của nhà thơ. Đó là vẻ đẹp nhân văn sáng ngời trong ngòi bút tài hoa của Đại thi hào dân tộc – Nguyễn Du.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều - Mẫu 5

Về nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du, Lã Nhâm Thìn nhận xét: “Tả người đẹp mà độc giả cảm thấy đẹp thật, đẹp tuyệt. Đó là thành công mĩ mãn”. Điều đó quả vô cùng chính xác. Không chỉ đối với miêu tả thiên nhiên, mà nghệ thuật tả người của Nguyễn Du cũng vô cùng tài hoa, độc đáo. Dưới đôi bàn tay tài hoa, tấm lòng trân trọng, nâng niu người phụ nữ Nguyễn Du đã phác họa lên chân dung tuyệt đẹp, vượt ra ngoài mọi chuẩn mực của nàng Thúy Kiều.

Trong văn học trung đại, miêu tả chân dung con người thường ít xuất hiện. Ví như Vũ Nương, chỉ được Nguyễn Dữ phác họa bằng một câu văn ngắn ngủi: “Tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Còn riêng đối với Nguyễn Du ông miêu tả chi tiết, kĩ lưỡng.

Thúy Kiều là chị cả, con gái của Vương viên ngoại. Kiều và Vân mang vẻ đẹp toàn vẹn, tuyệt mĩ, những mỗi nàng lại mang những nét đẹp riêng, không thể hòa lẫn. Để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng thủ pháp đòn bẩy, miêu tả Thúy Vân trước. Và thủ pháp này đã tỏ ra vô cùng đắc dụng, sau bốn câu thơ miêu tả chân dung Vân ông tập trung miêu tả vẻ đẹp của Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.

Trong tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Thúy Kiều được miêu tả qua nhận xét của Kim Trọng: “Thúy Kiều mày nhỏ mà dài, mắt trong mà sáng, mạo như trăng thu, sắc tựa hoa đào”, chỉ miêu tả được vẻ bề ngoài, mà không tả được thần thái, phẩm chất bên trong của nhân vật. Còn trong câu thơ của Nguyễn Du miêu tả được cả thần thái nhân vật, Thúy Kiều mang vẻ mặn mà sắc sảo ở cả tài và sắc. Cái “mặn mà” ở Thúy Kiều khiến người ta nhìn thấy là say đắm, giống như uống một thứ rượu lâu năm, dù nhẹ, nhưng ấn tượng lại sâu sắc, dài lâu. Đặc biệt từ “càng” kết hợp với nghệ thuật so sánh nhấn mạnh, khẳng định vẻ đẹp nổi trội của Thúy Kiều. Dù chỉ dùng hai câu giới thiệu nhưng cũng đã cho ta hình dung ban đầu về một tuyệt sắc giai nhân, mang vẻ đẹp hiếm có xưa nay.

Nguyễn Du không đi miêu tả chi tiết như khi tái hiện chân dung Thúy Vân, bức tranh vẽ chân dung Thúy Kiều chủ yếu thông qua bút pháp gợi tả cùng hình ảnh ẩn dụ qua đôi mắt:

Làn thu thu thủy, nét xuân sơn

Đôi mắt của Kiều trong vắt, sáng long lanh như làn nước mùa thu, thể hiện một con người thông minh nhanh nhạy. Đôi mắt ấy sâu thẳm, đầy sống động, linh hoạt, cho thấy một tâm hồn đa sầu, đa cảm. Đôi mắt ấy như biết nói, biết thì thầm, đó là chiều sâu nội tâm của nàng. Hình ảnh ước lệ, ẩn dụ “nét xuân sơn” gợi lên dáng vẻ đôi lông mày thanh mảnh, sắc nét như dáng núi mùa xuân. Đôi lông mày ấy càng tôn lên vẻ đẹp đôi mắt Thúy Kiều, khiến cho cả gương mặt bừng sáng, trẻ trung, tươi tắn. Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp vượt ngưỡng, vượt qua khỏi chuẩn mực thiên nhiên mà văn học Trung đại vốn lấy để làm quy chuẩn. Bởi vậy mà:

Nghệ thuật nhân hóa qua hai từ “hờn, ghen” đã cho người đọc thấy thiên nhiên sinh sự đố kị, ghen ghét trước vẻ đẹp của Thúy Kiều. Đây là điềm báo chẳng lành cho số phận nàng sau này. Đặc biệt trong hai câu kết khi nói về nhan sắc Thúy Kiều, Nguyễn Du đã dành những lợi ca ngợi về vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ: Một hai nghiêng nước nghiêng thành/ Sắc đành đòi một tài đành họa hai. Thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” đã nhấn mạnh vẻ đẹp toàn mĩ của nàng, vẻ đẹp ấy không có bút nào có thể lột tả hết, một vẻ đẹp mặn mà, nồng nàn, làm say đắm lòng người. Nhưng sau câu thơ đó là lời dự báo đầy lo sợ về những bất trắc, sóng gió mà đang đợi chờ Kiều ở phía trước.

Để làm nổi bật chân dung Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng tài tình bút pháp ước lệ tượng trưng làm nổi bật vẻ đẹp toàn mĩ, vượt qua khỏi quy chuẩn thiên nhiên. Đồng thời là biện pháp đòn bẩy, miêu tả Vân trước sau đó miêu tả Kiều cũng góp phần không nhỏ làm nổi bật nhan sắc Thúy Kiều.

Với những hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng tinh tế chính xác Nguyễn Du không chỉ dựng lên bức tranh chân dung của nàng Kiều mà còn là bức tranh tinh thần của nàng. Một người con gái nhan sắc tuyệt đẹp, tâm hồn sâu sắc, nhạy cảm. Bức tranh ấy còn mang tính chất dự báo về cuộc đời nàng, vẻ đẹp vượt chuẩn mực tự nhiên, khiến hoa ghen, liễu hờn dự báo tương lai sóng gió, vất vả của Kiều sau này.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều - Mẫu 6

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” được trích trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Đây là một đoạn trích mà tác giả đã đặc tả chân dung của hai chị em Thúy Kiều, nổi bật nhất chính là chân dung nàng Kiều. Vẻ đẹp của nàng là một vẻ đẹp hoàn hảo, tuyệt mĩ, trọn vẹn cả sắc – tài – tình. Nhưng xét cho cùng tài hoa của Kiều cũng không sao vượt qua khỏi khuôn khổ của quan niệm phong kiến thời xưa “Hồng nhan bạc mệnh”.

Sau những câu thơ giới thiệu chung về hai chị em cùng bức chân dung vẻ đẹp riêng của Thúy Vân, Nguyễn Du đã lấy vẻ đẹp của Thúy Vân để làm nền, tô đậm cho vẻ đẹp của Thúy Kiều:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà…
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”

Tương tự như cách miêu tả chân dung nàng Vân, tác giả vẫn dùng bút pháp so sánh, ẩn dụ và ước lệ. Sử dụng cách gợi tả và đưa ra những chuẩn mực của thiên nhiên để làm đối tượng so sánh với vẻ đẹp của Kiều. Có vẻ như đối với Kiều, tác giả đã tập trung vào gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt, bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là biểu hiện của sự tinh anh, trí tuệ. Cả cái sắc sảo của trí tuệ và mặn mà của tâm hồn đều liên quan tới đôi mắt. Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” đã gợi lên một cách đầy sống động về một đôi mắt long lanh, trong sáng là linh hoạt. Còn “nét xuân sơn” lại miêu tả đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung. Quả là vẻ đẹp của Kiều phi thường và lộng lẫy, đến mức làm cho thiên nhiên tạo hóa phải đố kị, ghen ghét. Điều đó chứng tỏ nhan sắc của Kiều đã vượt ra ngoài khuôn khổ của quy luật tự nhiên, ngoài trí tưởng tượng. Vẻ đẹp ấy có sức lôi cuốn mạnh mẽ làm cho “nghiêng nước nghiêng thành”, chẳng có bậc thang nào có thể đánh giá. “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai” đã khẳng định tuyệt đối sắc đẹp của Kiều là độc nhất vô nhị. Nhưng không chỉ có nhan sắc, Thúy Kiều còn là một cô gái thông minh trí tuệ, rất mực tài hoa:

“Thông minh vốn sẵn tính trời…
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”

Tác giả đưa tài năng và trí tuệ của Kiều lên tới tuyệt đỉnh, do trời ban phú, cái gì cũng tài giỏi hơn người. Các từ ngữ tuyệt đối được sử dụng như: vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, lầu, ăn đứt,…Theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến nàng đầy đủ các tài cầm – kì – thi – họa. Tác giả cực tả cái tài của nàng cũng là để ca ngợi cái tâm đặc biệt của nàng, cung đàn “Bạc mệnh” mà Kiều sáng tác chính là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm.

Như vậy, qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” ta đã được thấy bức chân dung có một không hai về nàng Kiều của Nguyễn Du. Vẻ đẹp cả tài và sắc của Kiều đã đạt tới độ tuyệt mĩ nhưng chính tài sắc ấy đã dự cảm về một tương lai đầy sóng gió và đau khổ của cuộc đời Kiều. Tuy miêu tả chân dung, nhan sắc và tài hoa nhưng lại hé mở về tâm hồn và dự cảm số phận là tài năng hiếm có của Nguyễn Du.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều - Mẫu 7

Đoạn thơ trích trong phần mở đầu của "Truyện Kiều" có thể nói đây là bức chân dung xinh xắn đẹp đẽ của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.

Bốn câu mở đầu là lời giới thiệu chung của hai nhân vật có nhan sắc lộng lẫy này, hai cô con gái đầu lòng của nhà Viên họ ngoại Vương. Hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng kết hợp với phép ẩn dụ là những biện pháp tu từ trong thơ văn cổ cho a thấy sắc đẹp hai chị em Thúy Kiều thật là thanh tao, trong trắng như mai như tuyết của thiên nhiên. Những người con gái vừa mới lớn dậy này đã được Nguyễn Du giới thiệu thật súc tích nhưng đầy trân trọng mến thương:

" Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười".

Họ đẹp từ hình dáng bên ngoài cho đến tâm hồn bên trong.

Sau lời giới thiệu chung là bức chân dung của nàng Vân. Vẫn bút pháp ước lệ kết hợp với một hệ thống từ ngữ chọn lọc, bốn câu thơ tiếp theo như vẽ ra trước mắt ta hình ảnh người thiếu nữ trong sáng, ngây thơ, rất đỗi đoan trang, phúc hậu dễ hòa lẫn với chung quanh. Đây là cái đẹp toàn bích của người con gái hiền dịu, trong sáng, vô tư, không gợn một nét nhỏ bụi trần từ "khuôn trăng", "nét ngài' cho đến nụ cười, giọng nói. Nhưng nhà họa sĩ hình như không phải dụng công nhiều trong miêu tả nhân vật này. Bút lực của ông còn dành cho nhân vật Thúy Kiều. Nhà thơ tả Thúy Vân, tưởng như sắc đẹp của Thúy Vân không ai hơn được nữa để rồi sau đó Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân chỉ là cái nền tôn thêm vẻ đẹp của Thúy Kiều. Chỉ hai câu:

" Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn."

Như một phép đòn bẩy, nhà thơ đã nâng nhân vật chính lên một bậc cao hẳn cả tài lẫn sắc trước mắt người đọc. Đến đây, tác giả không dừng lại ở hình thức bên ngoài mà đi sâu vào tài năng, tính cách bên trong, vào sự "sắc sảo mặn mà", "một hai nghiêng nước nghiêng thành" của Thúy Kiều.

Nếu ở nàng Vân, cái đẹp phúc hậu, đoan trang dễ chinh phục chung quanh: "Mây thua nước tóc, tuyết nhường làn da" thì ở nàng Kiều, cái đẹp "sắc sảo mặn mà" dễ gây tạo vật ghen tuông, hờn dỗi: "Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh".

Các cụ xưa đã nhận xét về sắc đẹp của hai chị em Thúy Kiều, một người là "sắc trung chi hiền", một người là "sắc trung chi thánh", kể ra cũng đã lí chí lắm vậy.

Thực ra vẻ đẹp bên ngoài là điều đáng chú ý, song đang quan tâm hơn vẫn là tài hoa và tính cách của nhân vật. Tác giả đã dùng nhiều câu kiến trúc theo lối tiểu đối để cho tài và sắc của Thúy Kiều được giới thiệu đến mức độ giới hạn của nó:

Mai ct cách/ tuyết tinh thần
Mây thua nước tóc/ tuyết nhường màu da
Làn thu thy/nét xuân sơn
Hoa ghen thua thm/ liu hn kém xanh.
...
Sc đành đòi mt/ tài đành ha hai

Chưa hết, Nguyễn Du đã không tiếc lời ca ngợi nàng bằng một loạt từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối: "Thông minh vốn sẵn tính trời!" , "Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm", "Cung thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương". Không một chữ đưa đẩy, các chữ, các hình ảnh đối chọi nhau và các từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối, đã thực sự tạo nên nhịp thơ trang trọng, đĩnh đạc càng tôn thêm tài sắc của Thúy Kiều.

Hai vẻ đẹp khác nhau nhưng bút pháp xây dựng lại giống nhau. Tác giả xây dựng hình tượng nhân vật thuần đường cong: làn nước mùa thu, ngọn núi mùa xuân, khuôn trăng, nét ngài, tóc mây, da tuyết ... . Nói là chị em Thúy Kiều, nhưng đoạn thơ chỉ nhằm giới thiệu nàng Thúy Kiều với vẻ đẹp sắc sảo, tài hoa đến mức "hoa ghen" "liễu hờn", trong đó tài hoa mới thực là điều đáng trọng.

Tóm lại, đoạn thơ ngắn gọn, bố cục hoàn chỉnh, chặt chẽ, nghệ thuật tả người bậc thầy, bới bút pháp điêu luyện đã chỉ đúng thần thái, cốt cách của nhân vật, từ ngoại hình đã bộc lộ nội tâm, lưu lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, đồng thời dự báo những gì sẽ đến với từng nhân vật: cuộc đời Thúy Vân chẳng biết đến "sóng gió" là gì, còn cuộc đời Thúy Kiều sẽ không tránh khỏi "mệnh bạc", kiếp "đoạn trường".

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều - Mẫu 8

Trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều của Nguyễn Du, ta không chỉ thấy một nàng Kiều có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, mang vẻ đẹp tuyệt mĩ. Mà qua những câu thơ tài tình của tác giả ta còn thấy nàng là con người tài hoa, vẻ đẹp nội tâm phong phú, sâu sắc.

Nguyễn Du đã dùng những câu thơ tuyệt bút nói về vẻ đẹp của Thúy Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Dung mạo của nàng không được phác họa chi tiết, đầy đủ như Thúy Vân, nhưng chỉ qua đôi mắt tuyệt đẹp người đọc cũng đã có thể cảm nhận được hết vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân của nàng. Ấy cũng chính là cái tài của Nguyễn Du. Tác giả tiếp tục sử dụng bút pháp ước lệ để miêu tả về vẻ đẹp của Thúy Kiều: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”, đôi mắt nàng mới đẹp làm sao, đó là một đôi mắt sáng, trong trẻo như làn nước mùa thu. Đôi lông mày mảnh, dài như dáng núi mùa xuân. Đôi mắt ấy còn gợi nên một thế giới nội tâm vô cùng đa dạng, phong phú, đó là tâm hồn nhạy cảm, tinh tế. Nàng đẹp hơn cả thiên nhiên, hơn cả tạo hóa, vẻ sắc sảo mặn mà ấy là “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Những từ ghen, hờn cho thấy thái độ tức tối, nổi giận của thiên nhiên. Từ đó cũng ngầm báo hiệu cuộc đời đầy sóng gió, truân chuyên của nàng sau này.

Kiều không chỉ có nhan sắc tuyệt mĩ mà tài năng của nàng của vào bậc hiếm có xưa nay:

Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Tài năng của nàng đã đạt đến độ lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến “cầm, kì, thi, họa” đều đạt ở mức đỉnh cao. Trong những tài năng đó, xuất sắc nhất là tài đàn, nó đã trở thành sở trường đặc biệt của nàng, không ai có thể sánh kịp “nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Tài năng của nàng này không được thể hiện ngay trong đoạn trích, nhưng ở phần khác đã được Nguyễn Du khẳng định: “Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa”. Những khúc nhạc mà nàng sáng tác luôn mang một nỗi buồn khắc khoải, thê lương, gây nỗi thương cảm và xúc động lòng người. Dường như ngay từ những khúc nhạc của một cô gái chưa vướng bụi trần, luôn được bao bọc, che chở nhưng lại gợi về nỗi sầu thê lương của những người phụ nữ bạc mệnh. Những khúc nhạc ấy cũng như là dự báo về chính cuộc đời của nàng. Ngẫm lại đời mình, trải qua nhiều chông gai, Kiều cũng tự nhận:

Thưa rằng bạc mệnh khúc này
Phổ vào đàn ấy những ngày con thơ
Cung cầm lựa những ngày xưa
Và gương bạc mệnh bây giờ là đây

Nguyễn Du đã thật ưu ái khi miêu tả chân dung Thúy Kiều. Nàng hiện lên qua những câu thơ của ông không chỉ đẹp đẽ ở nhan sắc mà còn toàn diện ở trí tuệ, tinh thần. Nàng là tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa, có nhan sắc, có trí tuệ nhưng lại chịu cảnh vùi dập của cuộc đời, của xã hội phong kiến. Thật cảm thương cho số phận của nàng, bởi vậy trong suốt cả bài thơ, hơn một lần Nguyễn Du đã phải thốt lên: “Hồng nhan quen thói má hồng đánh ghen”. Tố Hữu cũng xót thương cho đời nàng mà viết:

Chạnh lòng thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên.

Bức tranh chân dung Thúy Kiều được dựng lên chủ yếu thông qua bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy thiên nhiên để miêu tả vẻ đẹp con người. Nhưng vẻ đẹp của nàng còn vượt xa cả những chuẩn mực đó. Cho thấy vẻ đẹp tuyệt mĩ của tạo hóa. Sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, giàu giá trị biểu cảm: ghen, hờn, sắc sảo, mặn mà,… góp phần làm nổi bật vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều.

Đoạn trích đã thể hiện ngòi bút tinh tế, tài hoa của Nguyễn Du, khẳng định tài năng nghệ thuật tả người số một của ông quả là “kì tài diệu bút”. Tả Kiều không cốt tả hình dáng mà cốt để làm nổi bật vẻ đẹp và trí tuệ của nàng. Những câu thơ về Kiều còn mang tính chất dự báo về số phận éo le, một cuộc đời đầy trắc trở. Qua đó cũng thể hiện sự nâng niu trân trọng của Nguyễn Du trước vẻ đẹp của người phụ nữ.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều - Mẫu 9

Người Việt ta không ai là không biết Truyện Kiều, sáng tác vĩ đại của Đại thi hào Nguyễn Du, được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Có lẽ, vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của nàng Kiều trong đoạn trích "Chị em Thúy Kiều " còn để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng.

Tác giả đã khéo léo đưa những hình ảnh tượng trưng thường được dùng trong thi ca cổ để miêu tả vẻ đẹp của chị em nhà họ Vương, họ vừa đẹp người vừa đẹp nết:

"Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"

Cốt cách của thanh tao của mai, tinh thần trong trắng của tuyết, vẻ đẹp mười phân vẹn mười. Tiếp sau đó là những lời thơ miêu tả Thúy Vân. Đó là vẻ đẹp sang trọng, quý phái, được so sánh với các chuẩn mực thiên nhiên trăng, hoa, mây, tuyết. Thúy Vân khiến thiên nhiên phải thua phải nhường. Nhưng dường như đó chỉ là bút pháp vẽ mây nẩy trăng, bởi:

"Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn"

Vẻ đẹp ấy hơn Thúy Vân cả về tài và tình. Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng, so sánh vẻ đẹp con người với tự nhiên "Làn thu thủy nét xuân sơn", Thúy Kiều có đôi mắt trong như làn nước mùa thu và lông mày mềm mại như dáng núi mùa xuân. Nghệ thuật ẩn dụ vô cùng đặc sắc, đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện nội tâm sâu sắc. Bút pháp chấm phá ước lệ thật tài tình cho thấy cái nhìn tinh tế của tác giả.

"Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh"

Vừa là cách nói quá, vừa nhân hóa đã lột tả được nét đẹp của nàng Kiều, nếu như nét đẹp của Thúy Vân được thiên nhiên nhận thua, nhường nhịn thì vẻ đẹp Thúy Kiều lại khiến thiên nhiên phải ghen phải ghen vì thua thắm, phải hờn vì kém. Đây cũng là bức chân dung số phận.

"Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai"

Nàng Kiều sở hữu vẻ đẹp hoàn hảo tuyệt bích nhất, thành ngữ "nghiêng nước nghiêng thành" đã giúp tác giả làm rõ vẻ đẹp của nàng Kiều, có lẽ ngoài Kiều không có đến người thứ hai. Tài năng trời phú lại cả cầm kỳ thi họa "đủ mùi ca ngâm". Kiều là một cô gái thông minh có tài. Chi tiết nhỏ nhưng có thể cho ta thấy tinh thần nhân đạo của tác giả, đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ. Tài đánh đàn của Thúy Kiều điêu luyện đến mức tuyệt đỉnh. Các từ "làu", "ăn đứt" được đại thi hào sử dụng đã nhấn mạnh tài năng ấy. Nhưng đó cũng chính là bản đàn bạc mệnh mà Kiều dành tặng cho chính mình, những bàn đàn như dự báo số phận, cành đàn lại "càng não nhân". Kiều vừa là một người mang vẻ đẹp tài sắc, cũng là người có tâm hồn đa sầu đa cảm, một người con gái nên được yêu thương nhưng lại dự báo một tương lai "tài hoa bạc mệnh".

Bằng bút pháp tài hoa, "con mắt nhìn thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời", đại thi hào Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Kiều mang vẻ đẹp toàn bích, tài hoa vẹn toàn. Qua đó, ta thêm trân trọng tài năng và tấm lòng nhân đạo của tác giả.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều - Mẫu 10

Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” là đoạn nằm ngay trong phần đầu của tác phẩm “Truyện Kiều” thuộc phần I – Gặp gỡ và đính ước. Hơn hết, Thuý Kiều vẫn là người con gái hoàn hảo cả về nhan sắc, tài năng. Những nét đẹp này vẫn rực rỡ, tỏa sáng dù có thế nào. Nàng vẫn giữ trọn một lòng tâm đức vẹn toàn. Về nhan sắc, Nguyễn Du đã miêu tả nàng qua những nét vẽ:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”

Hai câu thơ càng như thêm khẳng định vẻ đẹp của Kiều. Ông vốn muốn lấy vẻ đẹp của Thuý Vân để làm nền cho vẻ đẹp của Thuý Kiều nổi trội hơn, rực rỡ hơn. Với thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy như trên, kết hợp với các từ ngữ mang ý nghĩa so sánh như là “càng, phần hơn” và các tính từ “sắc sảo, mặn mà”, tác giả đã khẳng định Kiều có vẻ đẹp rực rỡ về dung nhan, đằm thắm về tâm hồn, tình cảm. Vẻ đẹp ấy là sự hội tụ của cả tài lẫn sắc “so bề tài sắc” điều mà Thuý Vân không có. Sau lời thơ miêu tả khái quát, tác giả lại đi vào miêu tả chi tiết Kiều:

“Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.”

Khi tả Vân, tác giả lại đi vào miêu tả từng chi tiết, đường nét, từ gương mặt đến nụ cười, màu da, nước tóc. Còn khi tả Kiều, tác giả chỉ lựa chọn một chi tiết nhưng đấy lại là một chi tiết mang tính thần thái nhất, góp phần làm nên nhãn tự cho câu thơ, đó chính là đôi mắt nàng Kiều. Đôi mắt nàng trong sáng và thăm thẳm như mặt nước hồ thu ẩn dưới cặp lông mày thanh thản như dáng núi mùa xuân. Tác giả đã mượn hình ảnh ước lệ tượng trưng kết hợp với các vế tiểu đối gợi nhiều hơn tả, tác giả đã khắc hoạ được vẻ đẹp sắc sảo, kiều diễm, lộng lẫy của một trang giai nhân tuyệt thế với tâm hồn đa sầu, đa cảm. Và hơn thế nữa, vẻ đẹp ấy khiến cho hoa phải ghen, liễu phải hờn. Trong tự nhiên, hoa vốn tượng trưng cho cái đẹp thắm tươi, rực rỡ, còn liễu lại là tượng trưng cho sự mềm mại, tha thiết. Vậy mà cả hai đều phải “ghen, thua” nhường bước, lùi bước trước vẻ đẹp nổi trội, vượt ngưỡng của nàng Kiều với thái độ ganh ghét, đố kị.

Kiều không chỉ có vẻ đẹp khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn mà còn có tài năng xuất chúng, cầm kì thi hoạ, với “đủ món nghề”:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.

Ở Kiều, tài năng vốn là thiên bẩm, trời phú cho nàng sự thông minh và nét tài hoa hơn người, nàng có thể làm thơ, vẽ tranh, ca hát và đánh đàn. Trong đó, tài đánh đàn là nổi trội hơn cả. Không chỉ thế, nàng còn có thể sáng tác nên những bản nhạc “Bạc mệnh”. Bằng nghệ thuật liên kê kết hợp với những từ ngữ miêu tả cụ thể, tác giả đã khắc hoạ tài năng của Kiều là tài năng xuất chúng, nó hội tụ đầy đủ những yếu tố theo quan niệm truyền thống của xã hội phong kiến xưa kia đó là “cầm-kì-thi-hoạ”. Viết về tài năng của Kiều, một lần nữa, nhà thơ lại cho chúng ta hiểu thêm về tâm hồn của Kiều, của người con gái ấy. Nguyễn Du đằng sau những từ ngữ miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” nói chung và “Chị em Thuý Kiều” nói riêng đã thể hiện thái độ ngợi ca, trân trọng tài năng của người phụ nữ trong xã hội xưa, đây là nét mới mẻ và độc đáo của Nguyễn Du so với đương thời.

....

Phân tích vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều

Truyện Kiều là một kiệt tác văn học của đại thi hào Nguyễn Du, được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian, trở thành một phần quan trọng trong đời sống tinh thần dân tộc ta. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở phần mở đầu của Truyện Kiều, giới thiệu gia cảnh nhà Vương viên ngoại. Sau bốn câu thơ nói về gia cảnh gia đình nhà họ Vương (bậc trung lương, con gái út là Vương Quan) tác giả đã dành 24 câu thơ để nói về vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.

Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du giới thiệu khái quát chị em Thúy Kiều:

“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thân
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”.

Hai câu thơ đầu xác định lứa tuổi và vị trí hai chị em. “Tố nga” có nghĩa là cô gái đẹp. Đó không những là cái đẹp của lứa tuổi mà còn là cái đẹp của nhan sắc yêu kiều. Tiếp đến, bằng bút pháp ước lệ, tác giả gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong trắng của hai người thiếu nữ:

“Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.

Thúy Kiều và Thúy Vân được miêu tả là người có cốt cách thanh cao, đẹp đẽ như dáng mai. Không những thế, tâm hồn hai nàng trong sạch và tinh khôi như tuyết trắng. Thủ pháp ước lệ gợi cho người đọc hai hình dung tuyệt đẹp cả về hình dáng lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp ấy đạt đến chuẩn mực mà xã hội phong kiến xưa cần có. Một vẻ đẹp hài hòa và toàn vẹn “mười phân vẹn mười”.

Dù là xinh đẹp hay kiều diễm đến mức nào thì cũng phải có giới hạn bởi dù sao Thúy Kiều Và Thúy Vân là con người chứ không phải là tiên nữ giáng trần. Thế nhưng, ở đây, Nguyễn Du muốn phá vỡ giới hạn đó. Ông muốn tạo ra một ngoại lệ, đưa vẻ đẹp của hai nàng đến độ hoàn hảo, hiếm có.

Và hai vẻ đẹp ấy dần dần hiện ra trước mắt người đọc như ánh sáng lúc bình minh ló rạng, khiến cho người đọc không khỏi ngỡ ngàng. Đầu tiên là vẻ đẹp của Thúy Vân. Nàng có một vẻ đẹp khác vời, làm ta cảm thấy gần gũi và ấm áp vô cùng:

“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”.

Qua bốn câu thơ, Thúy Vân hiện lên với vẻ đẹp đằm thắm lạ thường. Nàng có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu (khuôn trăng đầy đặn), với nét ngài nở nang. Nụ cười của nàng rạng rỡ như đóa hoa đương thì đậm sắc trong vườn xuân (hoa cười). Giọng nói của nàng trong trẻo như tiếng ngọc ngà, cẩm thạch (ngọc thốt) biết bao mê li. Cử chỉ, hình dung đoan trang, thùy mị khiến cho người nhìn, người nghe càng thêm yêu mến trong lòng. Mái tóc nàng óng mượt và mềm mại như mây bay gió thổi. Làn da mịn màng, trắng đẹp như tuyết trắng non cao. Thật là càng nhìn càng thấy đắm say. Vẻ đẹp ấy làm cho đất trời phải thua, phải nhường, phải khiêm cung cúi đầu chào đón. Một vẻ đẹp tuyệt sắc nhưng điềm đạm, dự báo một tương lai êm đềm, hạnh phúc sẽ đến với nàng.

Đó là một vẻ đẹp trang trọng, cao sang của các công nương quý tử chỉ có thể có ở chốn lầu vàng gác ngọc. Thế nhưng, hoàn cảnh của Thúy Vân hết sức bình thường. Nàng là con dân một nhà “thường thường bậc trung”, không có gì nổi bậc. Đó là một vẻ đẹp trời đất hợp duyên mà có. Vẻ đẹp ấy do tạo hóa ban tặng, là thành quả của tổ tiên nhân đức nhiều đời tích tụ mà thành. Xưa nay ta chưa từng thấy tiên nữ, nay đọc Truyện Kiều mà được gặp tiên nữ vậy. Thật là một vẻ đẹp hiếm có ở trên đời. Ngoại hình và dung hạnh của Thúy Vân thể hiện nàng là một người con gái chuẩn mực, là một mẫu mực cần có của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến: hiền đức, phúc hậu và đoan trang hết mực.

Người đọc càng bất ngờ hơn nữa khi đọc bốn câu thơ tiếp theo miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều. Tưởng rằng người đẹp đến như Thúy Vân sẽ không thể nào có người đẹp hơn được nữa. Thế nhưng, dụng ý của Nguyễn Du thực chất là lấy vẻ đẹp của người em Thúy Vân làm cái nền để cho vẻ đẹp của người chị Thúy Kiều tỏa sáng, lung linh giữa đất trời:

“Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm. liễu hờn kém xanh”.

Vẻ đẹp của Thúy Kiều hiện lên cái nền của Thúy Vân. Nguyễn Du đã rất tài tình khi tạo được một “lực đẩy”, tiếp tục cho người đọc chiêm ngưỡng hai tuyệt phẩm của đất trời. Không giống như Thúy Vân, Thúy Kiều có mang vẻ đẹp sắc sảo mặn mà hơn nhiều lần.

“Sắc sảo” là cái đẹp của tư dung thể hiện qua khuôn mặt, ánh mắt, giọng nói,… “Mặn mà” là cái đẹp của tâm hồn vừa nồng thắm của cung cách vừa sâu sắc của trí tuệ và tài năng. Ánh mắt nàng trong trẻo như mặt nước hồ thu (“làn thu thủy”) trong ngày gió lặng. Chân mày của nàng cong vút như dáng núi mùa xuân (“nét xuân sơn”) tràn đầy sức sống. Toàn thân nàng toát lên sức cuốn hút đến mê mị lòng người. Vẻ đẹp ấy đã khiến cho hoa ghen tức vì “thua thắm”, liễu hờn giận vì “kém xanh”.

Nguyễn Du đã dành những từ ngữ đẹp nhất của mình dành tặng ca ngợi vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều. Đó là một vẻ đẹp toàn bích, trác việt, ngoại hạng; một vẻ đẹp có sức quyến rũ và chinh phục lòng người. Và còn hơn thế nữa, đó là một vẻ đẹp chưa từng có ở trên đời: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.

Nếu so về tài năng, có thể tìm thấy người thứ hai; còn vẻ đẹp của nàng là duy nhất. Một vẻ đẹp vượt qua mọi giới hạn mà có lẽ phải có duyên cơ ta mới được chiêm ngưỡng. Thế nên, vẻ đẹp độc nhất vô nhị ấy khiến cho đất trời nảy sinh đố kị, lòng người ganh đua. Điều đó dự báo một cuộc đời trắc trở, đầy sóng gió mà Kiều sẽ trải qua. Cuộc đời vốn đa đoan, tài năng và xinh đẹp không phải là tội lỗi nhưng lòng người khó đoán, mệnh số trắc trở. Quân tử đa nạn, hồng nhan bạc mệnh cũng là lẽ thường tình. Đó cũng là điều mà tác giả muốn gửi gắm khi xây dựng nhân vật này.

Tài năng vượt trội của Thúy Kiều tiếp tục được tác giả trình bày đoạn thơ sau. Nàng không chỉ tuyệt đẹp mà tài năng cũng đến độ phi phàm:

“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.

Thúy Kiều sinh ra vốn đã là người thông minh. Nhờ rèn luyện mà nàng càng trở nên tinh tế, tài năng phát lộ ra ngoài. Những thú tiêu dao cao quý của người xưa (cầm, kì, thi, họa) nằng đều thành thạo hơn người. Âm luật xưa nay nàng đều thấu rõ. Lại thêm có tài trích âm tạo nên bản “Bạc mệnh” vô cùng tha thiết đến sầu não nhân gian. Có thể nói, nàng có tất cả các kĩ năng về nghệ thuật và ở lĩnh vực nào nàng cũng đạt đến tuyệt đỉnh. Phải chăng, Nguyễn Du vì quá yêu mến nhân vật của mình mà đã dành cho nàng sự tôn vinh tột bậc đến thế?

Trong sử sách xưa nay cũng có lắm người đẹp nhưng xinh đẹp. Nhưng xinh đẹp, tài năng và tâm hồn cao quý như Thúy Kiều thì chưa từng thấy bao giờ. Nhân vật Thúy Kiều kiểu nhân vật lý tưởng mà Nguyễn Du đã cố công xây dựng. Quan nhân vật, Nguyễn Du đề cao giá trị con người thường dân trong xã hội phong kiến. Đặc biệt là người phụ nữ. Đó là những con người có nhân phẩm cao đẹp, tài năng xuất chúng, khát vọng cao vời, ý thức cao độ về thân phận cá nhân,…nhưng lại không được nhận lấy cuộc sống xứng đáng mà đáng lẽ ra phải có.

Đoạn thơ Chị em Thúy Kiều sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người, khắc họa rõ nét chân dung chị em Thúy Kiều. Đoạn trích còn là bài ca ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh là biểu hiện của cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều trong Chị em Thúy Kiều chi tiết

Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du không chỉ là kiệt tác bất hủ của nền văn học trung đại mà còn là của cả nền văn học Việt Nam. Với những giá trị nội dung tư tưởng lớn, mang tính hiện thực sâu sắc, phản ánh, lên án sự bất công, tàn ác của chế độ phong kiến và số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời thể hiện tư tưởng nhân đạo, cảm thương sâu sắc cho số phận con người, đặc biệt là phận nhi nữ, trân trọng những vẻ đẹp của người phụ nữ dưới chế độ cũ.

Bốn dòng thơ đầu tác giả giới thiệu chung về vị thứ và vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều:

“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười”

Bằng cách giới thiệu hai “ả tố nga” vừa ngắn gọn vừa giản dị hết sức ấn tượng đầy đủ. Trong gia đình họ Vương có hai cô con gái đầu lòng đẹp như “Hằng Nga”. Và câu thơ “‘Mai cốt cách, tuyết tinh thần” bằng việc sử dụng bút phát ước lệ tượng trưng thông qua hai hình ảnh “mai”, “tuyết”, tác giả gợi lên trước mắt chúng ta vẻ đẹp của hai thiếu nữ với dáng người mảnh dẻ, duyên dáng như cây mai một loài hoa đẹp và cao quý, tâm hồn của họ trong trắng như tuyết, cả hai đều đẹp hoàn thiện, hoàn mỹ “mười phân vẹn mười”, mỗi người mang một nét đẹp riêng "Mỗi người mỗi vẻ", đúng là cách nhìn đầy ngợi ca trân trọng của tác giả.

Đến với bốn câu thơ tiếp theo, tác giả ngợi về vẻ đẹp của Thúy Vân.

“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”

Câu thơ đầu “Vân xem trang trọng khác vời” đã khái quát đặc điểm của nhân vật. Hai chữ “trang trọng” gợi vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thúy Vân, có thể nói có bao nhiêu cái đẹp của tạo vật, thiên nhiên đều được Nguyễn Du mượn để tạo nên chân dung của Thúy Vân. Đó là “trăng, hoa, tuyết, ngọc, mây” - bằng bút pháp ước lệ, thư pháp liệt kê, vẻ đẹp của Vân được tác giả cụ thể hóa bằng khuôn mặt, đôi mày, mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói. Cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ làm nổi bật vẻ đẹp của đối tượng được miêu tả: “đầy đặn”, “nở nang” và “đoan trang”. Những biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa đều nhằm thể hiện vẻ đẹp phúc hậu mà quý phái của người thiếu nữ. Một Thúy Vân với gương mặt đầy đặn dịu nhẹ như trăng rằm, lông mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong như ngọc, mái tóc mềm mượt hơn mây, làn da trắng hơn tuyết. Vẻ đẹp ấy làm cho thiên nhiên ngưỡng mộ “mây thua”, “tuyết nhường”. Hai chữ “thua” và “nhường” biểu hiện sự hài lòng không ghen ghét, điều này dự báo nàng sẽ có một cuộc sống bình lặng, suôn sẻ không gặp sóng gió.

Khác với Thúy Vân, khi tả Thúy Kiều Nguyễn Du dùng đến tám câu thơ mới diễn đạt được cái vẻ đẹp của nàng, từ lượng câu thơ gấp đôi ta có thể thấy rằng vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp hiếm thấy và tuyệt mĩ, bởi so với Thúy Vân người con gái vốn đã xinh đẹp nhưng chỉ bốn câu thơ là đã khái quát gọn thì Thúy Kiều rõ ràng đã ở một tầm nhan sắc khác. Ta có thể thấy rõ được ngụ ý này của Nguyễn Du qua hai câu thơ chuyển “Kiều càng sắc sảo mặn mà/So bề tài sắc lại là phần hơn”.

“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”

So với Thúy Vân, thì đến Thúy Kiều dường như Nguyễn Du lại càng vận dụng triệt để cải thủ pháp ước lệ tượng trưng. Nếu như ở Vân tác giả còn chỉ rõ vẻ đẹp của từng bộ phận trên cơ thể, rồi đem ví với thiên nhiên, thì ở Thúy Kiều, hầu như Nguyễn Du chỉ gợi nhẹ, dùng bút pháp chấm phá để người đọc tự liên tưởng ra bức tranh Thúy Kiều. “Làn thu thủy” tức là nói đến đôi mắt trong như nước mùa thu, với những rung động nhẹ nhàng, mà nói đến đôi mắt mang màu nước, lại còn là mùa thu thì đó lại gợi cho ta một vẻ đẹp tuyệt trần, yếu đuối, và vô cùng lãng mạn. Nhưng cũng đồng thời chỉ ra rằng người có đôi mắt ấy lại là người đa sầu, đa cảm và cũng là người có số kiếp truân chuyên, vận mệnh đào hoa. Tương tự “nét xuân sơn” tức là chỉ đôi mày đẹp như núi mùa xuân, khiến người ta liên tưởng đến đôi mày liễu, gọn mảnh, cong, mang đến vẻ đẹp xuân sắc cho cả khuôn mặt, đó cũng là một nét đẹp tuyệt hiếm có, biểu lộ tính cách nhu thuận, dịu dàng của người phụ nữ. Thế nhưng Nguyễn Du tại sao không so với những sự vật khác mà lại gợi ra đôi mày của Kiều bằng hình ảnh núi non, điều này cũng làm ta phải suy nghĩ. Có thể giải thích rằng đó cũng lại là một ngụ ý nói về cuộc đời của Kiều, cũng gập ghềnh trắc trở y như dáng núi, hết lên lại xuống, khó có được ngày hiền hòa yên giấc. Đó là nói về đôi mắt, để nói về vẻ đẹp của Kiều Nguyễn Du còn có câu “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”, dẫu chưa phân tích thế nhưng từ bề mặt chữ ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy Thúy Kiều là một cô gái có vẻ đẹp rất sắc sảo, mặn mà khác hẳn với cái vẻ đẹp trang nhã, nhẹ nhàng của cô em Thúy Vân. So với “Làn thu thủy, nét xuân sơn” thì câu thơ này lại càng mơ hồ không rõ là Nguyễn Du muốn phiếm chỉ vẻ đẹp nào của Thúy Kiều. Thế nhưng từ chữ “thắm” có lẽ là tác giả muốn miêu tả nét môi nàng Kiều, môi đỏ như son, đến loài hoa cũng phải ghen tị vì chẳng tươi được bằng đôi môi của nàng. Một cách hiểu khác, có thể “thắm” ở đây là chỉ vẻ đẹp thiên tiên, tuyệt trần, đằm thắm của Thúy Kiều mà không một loài hoa nào có thể sánh ngang được. Cách điều này khiến ta liên tưởng đến một trong bốn tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa cổ đại, nàng Dương Quý phi với vẻ đẹp “tu hoa”, đến hoa cũng phải xấu hổ vì không sánh bằng. Ý “liễu hờn kém xanh” lại càng đặc sắc trong nghệ thuật gợi tả ước lệ của Nguyễn Du, ai cũng biết rằng loài liễu là loài nức danh với bản tính mềm mại, dịu dàng, thế nhưng khi so với Kiều thì lại phải hờn vì “kém xanh”. Ở đây xanh tức là chỉ sức sống, sự dẻo dai, cũng đồng nghĩa với việc gợi ra cái dáng hình lả lướt, mềm mại, uyển chuyển tuyệt thế so với liễu chỉ có hơn chứ không kém của Thúy Kiều. Như vậy so với Thúy Vân, thì vẻ đẹp của Thúy Kiều còn được gợi ra thông qua dáng hình mềm mại, yếu đuối, mà có lẽ nghĩ sâu hơn ta có thể tưởng tượng được thân hình tuyệt thế của nàng. Tuy không đặc tả Kiều một cách rõ nét như Thúy Vân nhưng Nguyễn Du đã dành hai câu thơ để nhấn mạnh nhan sắc Kiều rằng “Một hai nghiêng nước nghiêng thành/Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, ý chỉ vẻ đẹp của Kiều có lẽ cũng chẳng khác gì những Tây Thi, Điêu Thuyền thuở xưa, hồng nhan thì họa thủy, nghiêng nước nghiêng thành là có thật. Và thực sự, Kiều cũng khiến một nam nhân như Từ Hải rời bỏ một cõi, rồi cuối cùng rơi vào kết cục không thể vãn hồi.

Đặc biệt Thúy Kiều có vẻ đẹp nổi trội hơn không chỉ ở nhan sắc mà nó còn thể hiện ở tài năng của nàng, thiết nghĩ Nguyễn Du tuy có tư tưởng tiến bộ, nhưng vẫn còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền Nho học cho rằng phụ nữ không cần quá xuất sắc thì mới có thể hạnh phúc và tiêu biểu cho hình mẫu này là Thúy Vân, còn ngược lại phụ nữ mà vừa có nhan sắc, lại còn có tài thì thường bạc mệnh. Thế nên Nguyễn Du mới xây dựng hình tượng Kiều vừa có nhan sắc tuyệt diễm, lại thêm là bậc kỳ tài trong thi, ca, nhạc, họa. Nàng là người con gái thông minh, học một biết mười, đặc biệt với món đàn tỳ bà thì lại càng là tay nghề trác tuyệt. “cung thương làu bậc ngũ âm”, nàng có thể tự phổ nhạc, sáng tác nên các khúc đàn hay, thế nhưng có lẽ như một điềm báo về kiếp hồng nhan bạc mệnh, từ việc tinh thông tỳ bà - thứ đàn vốn hay xuất hiện ở chốn phong trần, âm vực rộng rãi, cầm phổ chủ yếu là những nốt buồn bã thê lương. Cho đến việc bản thân Kiều cũng viết bản “Bạc mệnh”, buồn thương, não nề đã phần nào thể hiện được cuộc đời đầy sóng gió của một trang giai nhân tuyệt sắc.

“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Những câu thơ cuối lại quay về miêu tả hoàn cảnh sống của hai chị em, cả hai nàng xuất thân con viên ngoại nên cuộc sống cũng được xem là khá giả, “phong lưu” được sống trong lụa là gấm vóc. Kiều và Vân đã sắp tới tuổi cập kê, gần tuổi xuất giá, trước khi sóng gió ập đến thì chị em “êm đềm trướng rủ màn che”, cuộc đời trôi qua yên ả, vui vầy. Dẫu cũng đã trưởng thành, nhưng cả hai nàng đều còn rất thanh cao, tinh khiết. Những thứ ái tình “ong bướm”, Kiều và Vân cũng chưa từng nếm trải mà giữ gìn nền nếp gia phong một phép.

Như vậy với hai tư câu thơ trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ mẫu mực về nghệ thuật tả người. Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, thủ pháp đòn bẩy, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ. Tác giả đã khắc họa chân dung hai người thiếu nữ với tất cả sắc, tài, tình, mệnh. Đằng sau bức chân dung chị em Thúy Kiều là tấm lòng ngợi ca trân trọng của tác giả - đó là một biểu hiện của tinh thần nhân văn trong Truyện Kiều, qua đây ta hiểu trân trọng thêm vẻ đẹp của con người đặc biệt là người phụ nữ.

Đoạn văn Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều

Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một kiệt tác giàu giá trị cả nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm viết về số kiếp truân chuyên của người con gái tài sắc nhưng bạc mệnh Thúy Kiều. Đặc biệt, trong đoạn trích "Chị em Thúy Kiều", thông qua bút pháp miêu tả nhân vật và nghệ thuật tả tình, nhà thơ Nguyễn Du đã tái hiện sống động vẻ đẹp, tài năng và những dự đoán về số phận sóng gió của nàng Kiều. Khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, nhà thơ đã không miêu tả cụ thể gương mặt của Kiều mà chỉ tập trung miêu tả đôi mắt của nàng. Đôi mắt ấy trong vắt, sâu thẳm như một hồ nước mùa thu tĩnh lặng còn đôi lông mày của Kiều lại thanh thoát như dáng núi mùa xuân. Chỉ bằng hai nét vẽ điểm nhãn nhưng Nguyễn Du đã gợi cho ta thấy vẻ đẹp tuyệt mỹ của nàng. Vẻ đẹp đó khiến cho "hoa ghen", "liễu hờn", làm nghiêng ngả cả thành quách "nghiêng nước nghiêng thành". Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá "hoa - liễu" biết "ghen - hờn" cùng thành ngữ nói quá để gợi lên vẻ đẹp xuất chúng, vượt trên mọi khuôn khổ của tự nhiên, khiến hoa, liễu phải ganh ghét, đố kị. Đồng thời ông cũng gợi ra cho người đọc một dự cảm không lành cho số phận truân chuyên kiếp hồng nhan của Kiều. Nếu như sắc đẹp của Kiều đã vô cùng tuyệt mỹ thì tài năng của nàng còn tuyệt vời gấp hai. Trời phú cho Kiều sự thông minh thiên phú cùng tài năng ở mọi lĩnh vực cầm kì thi hoạ. Tất cả nàng đều thông thạo, đều đạt tới mức lý tưởng theo quan niệm phong kiến "Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm". Nhưng Kiều tài hoa nhất ở nghệ thuật đánh đàn và soạn nhạc. Không chỉ "làu bậc ngũ âm" trong nhạc cổ, Kiều còn có tài năng đánh "Hồ cầm" - một loại đàn cổ của người Hồ rất khó học. Đặc biệt nàng còn sáng tác ra khúc nhạc "Bạc mệnh" khiến cho ai nghe cũng phải đau khổ, buồn bã "não nhân". Điều đó minh chứng cho một tâm hồn đa sầu đa cảm của Kiều, dự cảm về một tương lai đầy bi kịch, nước mắt. Vẻ đẹp của Kiều là bức chân dung về số phận về tính cách. Vẻ đẹp cũng như tài năng của nàng đều vượt trội so với những quy luật của tự nhiên. Nó báo hiệu một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh, éo le, truân chuyên, nghiệt ngã. Bằng những biện pháp như ước lệ tượng trưng, so sánh, nhân hoá, đặc biệt là nghệ thuật đòn bẩy đã cho ta thấy được vẻ đẹp tuyệt mỹ của Kiều. Qua đó một lần nữa khẳng định tài năng miêu tả con người rất xuất sắc của Nguyễn Du.

....

>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!

Chia sẻ bởi: 👨 Trịnh Thị Thanh
207
  • Lượt tải: 687
  • Lượt xem: 605.383
  • Dung lượng: 752,7 KB
Liên kết tải về

Link Download chính thức:

Các phiên bản khác và liên quan:

Sắp xếp theo
👨

    Chủ đề liên quan