Phân tích bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương (Dàn ý + 3 Mẫu) Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ
Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương bao gồm 3 mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em học sinh có thể vận dụng, điều chỉnh và viết một cách tự tin chính xác hơn.
Phân tích Mời trầu của Hồ Xuân Hương mà Download.vn đăng tải dưới đây sẽ giúp các em tự luyện tập và rèn luyện phong cách viết riêng cho mình. Hi vọng qua 3 mẫu phân tích Mời trầu này các em học sinh hiểu rõ niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi của một trái tim nồng nàn, đằm thắm, giàu cá tính.
Phân tích Mời trầu của Hồ Xuân Hương hay nhất
Dàn ý phân tích Mời trầu
a, Mở bài
Giới thiệu khái quát về tác giả, đôi nét về tác phẩm
b, Thân bài
- Ý nghĩa nhan đề “Mời trầu”.
- Hình ảnh miếng trầu quả cau nhỏ bé như chính số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
- Lời khẳng định bản thân, tuyên bố chủ quyền của thi sĩ.
- Câu nói giao duyên, tự đi tìm hạnh phúc, tự se duyên cho chính mình.
- Nỗi niềm trăn trở, mong mỏi về hạnh phúc lứa đôi.
c, Kết bài
Khẳng định giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung của tác phẩm qua những câu thơ bình dị, giàu tính nhân văn mà nhà thơ Hồ Xuân Hương thổ lộ.
Phân tích bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương - Mẫu 1
Trong kho tàng văn học Việt Nam, không ít những nhà thơ đã lấy tình yêu làm cảm hứng sáng tác, rất nhiều nhà thơ nổi tiếng là “ thi sĩ của tình yêu”. Qua những bài thơ tình, người tác giả thể hiện rất rõ suy tư, trăn trở cùng những cung bậc cảm xúc, cùng niềm khao khát được hạnh phúc, được yêu thương. Những nữ nhà thơ Hồ Xuân Hương lại có một cách thể hiện nội tâm của bản thân hết sức nhạy cảm và tinh tế. Đặc biệt là qua bài thơ Mời trầu, bà đã thể hiện rõ nét niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi:
“Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”
Có thể nói, trong cuộc đời, nữ nhà thơ, bà đã gặp và nên duyên với rất nhiều người, chứng cuối cùng lại chẳng đi đến một cái kết đẹp. Tình cảm hồn nhiên, trong sáng của thời tuổi trẻ lại gặp những lời bỡn cợt, trêu đùa của Chiêu Hổ, thoắt đã trở thành vợ lẽ của Tổng Cóc, sống cái kiếp tủi nhục trăm bề, ngày ngày sống trong sự cô đơn, u buồn.
Hay thậm chí người bạn văn chương như ông phủ Vĩnh Tường tưởng đâu đã tìm được bến đỗ, nhưng hóa ra cũng chỉ là một mộng ảo diễn ra thật ngắn ngủi. Trái tim nhỏ bé của Xuân Hương trải qua bao nhiêu mối tình, tưởng chừng đã nát tan vì sự trớ trêu ấy. Biết bao đêm trường bà nằm ôm hận một mình, tự thấy xót xa cho cuộc đời của chính mình.
Có lẽ bài thơ Mời trầu được ra đời vào khoảng thời gian nữ thi sĩ dựng quán nước mong tìm được người bạn trăm năm. Thực ra, trong lòng Xuân Hương từ lâu bà đã tự ý thức được bản thân cần một bạn tri kỷ để tâm sự, để chia sẻ hơn là những tình cảm yêu đương nồng cháy một thời tuổi trẻ. Bởi lẽ, trải qua biết bao thăng trầm, bà cũng đã cảm nhận được sự cô đơn, lạnh giá vì vậy giờ đây bà rất cần những lời nói tâm tình, sự động viên an ủi.
Rất thẳng thắn và chân thành,
Hồ Xuân Hương giản dị mà bộc bạch:
Tuy bề ngoài chỉ là những quả cau “nho nhỏ”, miếng trầu mang hương vị “hôi”, nhưng sâu bên trong ấy ẩn chứa một ý nghĩa rất sâu xa. Hồ Xuân Hương đã rất tài năng, tinh tế khi lấy cái hồn của dân tộc Việt Nam, chính là sự thanh cao của quả cau, miếng trầu keo sơn để nói về tình yêu của mình, rất độc đáo và thi vị theo một phong cách riêng biệt của nữ thi sĩ – phong cách Hồ Xuân Hương.
“Này của Xuân Hương mới quệt rồi”
Tác giả thể hiện cái tôi của mình rất độc đáo, chuẩn nhị mà lại mang nét duyên dáng. Hồ Xuân Hương tự trải lòng mình, bà tâm sự, bày tỏ tâm tư, tình cảm của mình một cách chân thành. Câu thơ còn là một cách nói rất mới lạ, rất riêng của Xuân Hương “quệt”. Đây là một động từ độc đáo, được dùng bởi con người cũng độc đáo, mạnh mẽ và đầy cá tính, khiến cho độc giả cảm thấy thích thú, và càng thêm yêu hơn cái quệt thật dễ thương, thấm đẫm sự tình ý ấy.
Thế nhưng đằng sau tấm chân tình tưởng chừng như rất ung dung, bình thản ấy là một giọng nói em dịu, nhẹ nhàng chất chứa biết bao nỗi niềm cảm xúc trong đó.
“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.
Hai câu thơ hiện ra tràn ngập màu sắc, đó là màu “xanh” của lá và màu “bạc” của vôi, khi được pha trộn lại hai màu này bạc và xanh đã hòa thành “thắm” rồi. Từ “Thắm” là từ ngữ chỉ màu đỏ tươi của những miếng trầu đồng thời cũng là sự thắm thiết tình nghĩa – đấy chính là sắc màu của sự hòa hợp, gắn bó, nghĩa tình thủy chung. Với ngòi bút đầy tài năng của mình, nhà thơ đã khai thác thật khéo léo, tài tình về ý nghĩa tượng trưng của các màu sắc.
Khi ta thưởng thức chung cái lá trầu và thêm một chút vôi, chúng sẽ hòa quyện vào nhau tạo nên màu sắc thắm, “thắm lại ”. Nhưng nếu tách riêng chúng ra thì chỉ còn sự lạnh lùng, non nớt của màu xanh và sự bạc bẽo, hai lòng của cái màu bạc. Niềm khao khát về mái ấm hạnh phúc sao mà ưu tư và buồn thương đến thế. Đã vậy, một loạt các từ ngữ “có phải… thì… đừng … như…” xuất hiện, chẳng khác gì con dao sắc nhọn, cứa vào lòng, vào trái tim vốn chân thành, chung tình của nữ thi sĩ.
Bởi thế, trước sự lận đận, ngang trái trong đường tình duyên, trái tim ấm nóng, chân thành, của Xuân Hương đã cất tiếng để đòi hỏi một hạnh phúc nhỏ bé, chính đáng. Qua bài thơ, nữ thi sĩ đã gói gọn nhưng thâm tình, cùng tấm lòng rộng mở với mong muốn được vẹn tròn chuyện tình duyên. Tâm tình và khát vọng ấy đã vang lên một cách đầy mạnh mẽ, bà mạnh dạn phá vỡ những định kiến lạc hậu, tàn nhẫn, u ám của xã hội cũ.
Đó như là một tín hiệu tích cực, mở đầu cho sự đâm chồi, nảy nở của một ý thức cá nhân, dũng mãnh đứng lên đấu tranh đòi hạnh phúc cho bản thân nói riêng và cho những người phụ nữ bất hạnh khác nói chung. Chắc chắn rằng, tiếng vọng mời trầu của nữ thi sĩ sẽ băng qua mọi thời đại mà làm lay động đến bao tâm hồn.
Phân tích bài Mời trầu - Mẫu 2
Hồ Xuân Hương là nhà thơ nổi tiếng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Ở giai đoạn lịch sử này, chế độ phong kiến suy tàn đã bộc lộ những hạn chế, bất công. Hồ Xuân Hương đã gửi gắm vào thơ những suy tư, trăn trở trước hiện thực của xã hội, trước thân phận bất hạnh của con người, nhất là người phụ nữ. Những tác phẩm thơ Nôm tiêu biểu của bà thời kì này không thể không kể đến bài thơ “Mời trầu”.
Mời trầu cũng như nhiều bài thơ khác của Hồ Xuân Hương thuộc thể tuyệt cú cổ điển. Đấy là một thể Đường luật thi, một thứ văn chương bác học. Nhưng đọc “Mời trầu” không ai có ý nghĩ đây là bài thơ Đường du nhập từ Trung Quốc vào qua những nhà trí thức Hán học. Có một cái gì thật là nôm na dân dã ở lời thơ hết sức bình dị và giọng điệu mộc mạc.
Hình ảnh miếng trầu đã mang đến cho chúng ta những liên tưởng về miếng trầu truyền thống gắn liền với những niềm vui như đám cưới, nó cũng gắn liền với những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam trong sự tích trầu cau. Còn ở đây thì sao?. Miếng trầu ấy thể hiện được nỗi lòng Xuân Hương khao khát có một tình yêu thật sự, một hạnh phúc vợ chồng đời thường êm ấm, nồng đượm.
Trước hết hai câu thơ đầu nhà thơ nói về miếng trầu ấy và chủ nhân làm ra miếng trầu ấy chính là Xuân Hương:
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi”
Miếng trầu ấy có quả cau, có lá trầu. Hai thứ ấy đi liền với nhau để làm nên một miếng trầu. Hình ảnh những miếng trầu têm xanh ngắt cánh phượng mới đẹp làm sao. Quả cau thì nho nhỏ gợi lên cái hình ảnh nhỏ bé của miếng trầu nhưng lại rất đẹp. Sự nhỏ bé ấy hay cũng chính là sự nhỏ bé của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Miếng trầu hôi không phải là nó có mùi hôi mà do lá trầu cay nên nói như thế. Hình ảnh miếng trầu có ngàn năm tuổi như thể hiện cho nguyện ước khát khao lứa đôi của bà chúa thơ Nôm. Người sở hữu miếng trầu ấy chính là nhà thơ. Từ “này” thể hiện được tiếng mời, tiếng xưng danh của Xuân Hương. Miếng trầu ấy mới quệt xong, nó vẫn còn tươi xanh, ngọt bùi lắm. Miếng trầu của Xuân Hương không khác gì miếng trầu bình thường khác về hình thức nhưng miếng trầu ấy chất chứa biết bao nhiêu là tâm sự là nỗi lòng của người con gái kia. Đó chính là miếng trầu của lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của thi sĩ.
Thế nhưng, sau tấm chân tình gần như bình thản ấy là một giọng nói nhẹ nhàng chất chứa bao cảm xúc, bao nỗi niềm.
“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.
Hồ Xuân Hương đưa ra một câu hỏi vừa đưa ra một yêu cầu. “Có phải duyên nhau thì thắm lại”. Từ “thắm” sử dụng rất đắt. “Duyên” theo quan niệm dân gian là sự ràng buộc lẫn nhau từ kiếp trước đến kiếp này, Hồ Xuân Hương muốn nói đến cái duyên ấy. Hai câu thơ đầu nói về chuyện ăn trầu, hai câu cuối chuyển sang chuyện duyên số, chuyện con người vậy mà ý thơ vẫn liền mạch, không gò bó chứng tỏ tài dùng ẩn dụ của nhà thơ đến mức tuyệt vời. Nhà thơ còn vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong câu kết làm cho ý thơ thật đặc sắc.
Bài thơ không chỉ đơn giản nói về duyên trầu mà Hồ Xuân Hương đã nói đến duyên phận của con người, của người phụ nữ thời phong kiến. Cái duyên ấy bấp bênh bạc bẽo như vôi. Như trong một số bài khác bà có nhắc nhiều đến duyên phận của người phụ nữ ‘thân em vừa trắng lại vừa tròn – bảy nổi ba chìm với nước non” (Bánh trôi nước). Qua đó gợi lòng thương cảm tới những con người có niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi, một tình yêu son sắt thủy chung.
Với ngôn từ giản dị, giàu ý nghĩa, bài thơ “Mời trầu” như bao quát chuyện tình duyên lận đận của tác giả. Bà luôn khao khát sống với hạnh phúc lứa đôi. Đó là một tình cảm thật sự chứ không phải là thứ tình cảm vợ lẽ, chính vì thế mà ta cảm thấy yêu quý hơn người phụ nữ tài ba ấy.
Phân tích bài thơ Mời trầu - Mẫu 3
Xuân Diệu, nhà thơ, nhà bình thơ tinh tế đã viết về bài thơ "Mời trầu" của Hồ Xuân Hương, song chủ yếu nghiêng về bình diện xã hội học: "Bọn cậu viên, cậu ấm không thực bụng yêu thương, chỉ định quẩn quanh chim chuột, bọn bạc tình, bọn nhạt nhẽo" được Xuân Hương lấy cau, lấy trầu ra mời mà thực là mắng khéo hoặc mỉa mai... Cậu công tử kia lần sau còn đến, và lần này Xuân Hương lại dùng đến trầu cau một cách rõ ràng hơn, để tống khách đi ngay từ cái phút "miếng trầu làm đầu câu chuyện"
"Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi
Nhưng vấn để không chỉ có thế. Đi sâu khảo sát câu chữ, tín hiệu ngữ nghĩa của từng dòng thơ, dường như bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn ấy lại mở ra khá nhiều phương diện nghệ thuật sâu lắng phù hợp với phong cách tư duy thơ ca của Hồ Xuân Hương.
Ngay ở câu thơ mở đầu, đối tượng vận dụng không được nữ sĩ mô tả ở vẻ đẹp toàn diện, cũng không phải cái đẹp thông thường, mà căn bản cảm nhận ở khía cạnh bất thường, dị thường. Ở đây, quả cau phải là "nho nhỏ còn miếng trầu thì "hôi". Điều này có sự chiếu ứng tương hợp với quan niệm cái đẹp và hình thức tư duy nghệ thuật trong phần lớn các sáng tác của Hồ Xuân Hương. Trong dự cảm sáng tạo của mình, dễ thấy nữ sĩ thường đồng cảm với những đối tượng tầm thường nhỏ mọn như loại con ốc, cái quạt, quả mít "xù xì", cái trống "thủng", bánh trôi nước "bảy nổi ba chìm", đồng tiền "hoẻn"; cho đến những hình ảnh thiên nhiên cũng thô kệch, méo mó, kì dị, dị thường đến hết mức, với những đá "ông chồng, bà chồng", trăng "chín mõm mòm", "dỏ lòm lom"... Chung quy đó là cách hình dung thế giới theo lối Hồ Xuân Hương, sự liên tưởng ứng hợp giữa mặc cảm về con người nhỏ bé ở chủ đề sáng tạo với đối tượng được mô tả.
Đến câu thơ thứ hai cũng biểu lộ rất rõ phong cách thơ của Bà chúa thơ Nôm, ở đây, "đỏ lòm lom"... Chung quy đó là cách hình dung thế giới theo lối Hồ Xuân Hương, sự liên tưởng ứng hợp giữa mặc cảm về con người nhỏ bé ở chủ đề sáng tạo với đối tượng được mô tả.
Đến câu thơ thứ hai cũng biểu lộ rất rõ phong cách thơ của Bà chúa thơ Nôm, ở đây, chỉ từ "này" đi với đại từ sở hữu "của" vừa có nghĩa để chỉ quả cau, miếng trầu trên kia, vừa có nghĩa chỉ về một cái gì đó, một cái nào đó "của" Xuân Hương. Hơn nữa, cái "này của Xuân Hương" cũng hàm nghĩa chuyển tiếp, phiếm chỉ những trầu, cau ở câu trên và nối với động từ "quệt". Ý thơ ở đây khá là lấp lửng: "trầu cau - cái này" và "cái này - quệt" (quệt vôi hoặc có thể quẹt cái gì đó!). Cách nói ỡm ờ, thanh - tục, tục - thanh kiểu này vốn rất phổ biến trong thơ Hồ Xuân Hương.
Còn lại hai câu thơ sau vừa mở ra những tuyến cảm xúc trữ tình như khác biệt mà kì thực lại nương tựa, liên hệ hoàn chỉnh lẫn cho nhau. Câu thơ "Có phải duyên nhau thì thắm lại" chính là một lời "mời mọc, khao khát nguyện cầu" cho duyên tình tròn đầy; còn câu kết "Đừng xanh như lá, bạc như vôi" lại là tiếng nói răn đe, cảnh tỉnh, hàm thêm một nghĩa phê phán khinh bạc: loại người "xanh như lá, bạc như vôi’’ ấy mà. Câu thành ngữ được sử dụng ở đây quả là đắc dụng. Điều sâu lắng và tế nhị hơn, khi nói về sự "phải duyên", nhà thơ đã nói hết lẽ, nói đến điều cái kết quả viên mãn "thắm lại"; nhưng ở câu thơ sau, thi nhân chỉ nêu hiện tượng, chỉ đưa ra lời khuyên: "Đừng...", chứ không đành lòng, không nỡ nói tới tận cùng cái nhân, cái quả như kiểu câu thơ trên. Một lời khuyên nhủ, cảnh tỉnh xa xôi, kể cũng thật tình tứ và giàu lòng trắc ẩn.
Có một điều khác nữa - và đây mới là điểm nút để hiểu cả bài thơ - là mối liên hệ logic sâu xa giữa hai câu thơ sau này với ý tưởng chủ đạo qua câu thơ mở đầu. Dường như ờ đáy sâu tâm thức sáng tạo, dự cảm xót xa về thân phận con người nhỏ bé đồng hành với tiếng nói nguyện cầu khát khao hạnh phúc. Trên cái nền của lối thơ, biểu tượng ỡm ờ hai mặt truyền thống, bài thơ "Mời trầu" chắc hẳn không chỉ gắn với ý nghĩa phê phán cụ thể nào đó (nếu có), mà căn bản hơn là tiếng lòng thâm trầm sâu lắng, khát khao hạnh phúc, khát khao giao cảm với đời, khát khao mong chờ tiếng đồng vọng, hay là chiếc xương sườn thứ bảy còn vô tăm tích nơi xa.