Dẫn chứng liên hệ Vợ nhặt của Kim Lân Các vấn đề liên hệ mở rộng cho Vợ Nhặt

Dẫn chứng liên hệ Vợ nhặt của Kim Lân là tài liệu cực kì hữu ích dành cho các bạn học sinh lớp 12.

Liên hệ mở rộng Vợ nhặt giúp cho bài văn nghị luận thêm hay, ấn tượng nhận được sự đánh giá cao của người chấm. Tuy nhiên việc lấy dẫn chứng liên hệ trong tác phẩm nhiều em còn không biết làm như thế nào? Chính vì thế trong bài viết dưới đây Download.vn giới thiệu đến các bạn Dẫn chứng liên hệ Vợ nhặt hay chi tiết nhất. Bên cạnh đó các bạn xem thêm: dẫn chứng liên hệ Vợ chồng A Phủ, cách thay thế từ/cụm từ trong bài nghị luận văn học.

Dẫn chứng nhân vật bà cụ Tứ

*Là một người mẹ hết mực yêu thương con. Liên hệ với:

+ Người đàn bà hàng chài - “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu: Hi sinh tất cả và chịu mọi tổn thương về thể xác lẫn tinh thần chỉ đề mong con được hạnh phúc.

+ Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao: Bán cậu Vàng, ăn bả chó để không phạm đến nhà của con.

+ Hình ảnh người mẹ Việt Nam:

“Cả cuộc đời Mẹ một nắng hai sương
Lặng lẽ bước trên đường dù mưa gió
Bởi thương con…Mẹ lần mò vượt khó
Dù gian truân vàng võ chẳng nao lòng”.

Dẫn chứng nhân vật Thị

- Con người bị xóa mờ nhân thân: không có tên, tuổi cụ thể: Liên hệ với nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.

- Con người rơi vào bi kịch của phận người trong cơn đói: Liên hệ với:

- Nhân vật bà lão trong tác phẩm “Một bữa no” của Nam Cao: Khốn cùng vì miếng ăn, nó đày đọa con người ta đến mức tha hóa, biến chất. Bà lão ấy chẳng còn biết nhục là gì bởi bà nghĩ “Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói?”

- Sinh trong tác phẩm “Đói” của Thạch Lam: Cái đói khiến Sinh đánh mất lòng tự trọng, phải nhặt lại thức ăn kiếm từ những đồng tiền bẩn mà chính tay mình đã vứt đi.

Dẫn chứng xã hội trong “Vợ nhặt”

*Xã hội Việt Nam chìm trong nạn đói kinh hoàng, khủng khiếp năm 1945 - thời điểm mà dân ta chịu cảnh gông cùm, xiềng xích của cả thực dân Pháp và phát xít Nhật. Đời sống người dân điêu đứng đến mức “người chết thây nằm còng queo bên đường, người sống chỉ còn là những cái bóng dật dờ lặng lẽ như những bóng ma”. Hay nói như cách của Bàng Bá Lân thì:

Khắp đường xa những xác đói rên nằm
Trong nắng lửa, trong bụi lầm co quắp.
Giữa đống giẻ chỉ còn đôi hố mắt
Đọng chút hồn sắp tắt của thây ma”

*Các em có thể liên hệ:

- “Chuyện cũ của Hà Nội” - Tô Hoài:

Về nạn đói, mỗi lần nhắc lại Tô Hoài vẫn bàng hoàng, kinh hãi đến nỗi chữ nghĩa run rẩy như thổi bay được. Để rồi một Hà Nội trong những năm tháng ấy được nhà văn khắc họa một cách chân thực đến rùng mình: “Càng phấp phỏng, càng hoảng hốt khi trông thấy lũ lượt người đói các nơi kéo vào… Người ngồi, người chết la liệt các vỉa hè. Suốt ngày đêm xe kéo xác chết lầm lũi qua”. Đau đớn hơn khi phải chứng kiến những đứa trẻ sống trong cảnh ấy chẳng khác nào một thứ hàng: “Lại thêm người đói các nơi ùn tới. Trong đầu chợ, nhan nhản người đem bán trẻ con. Ở làng tôi, người quảy trẻ con sang bán ở các chợ bên kia sông Hồng. Có người chuyên đi buôn trẻ con, như thời thường mua bán gà lợn. Nhưng đâu bây giờ cũng hết cái ăn, ai còn mua trẻ con làm gì. Bắt đi lắm khi lại dắt về. Khốn khổ”.

- “Ô Cầu Dền” trong tập tản văn “Bát phố” - Bảo Sinh: Nhắc về nạn đói: “Năm 1945, đây là mả chôn chung của nạn nhân chết đói. Hàng ngày, xe bò chở đầy xác chất trên phủ mảnh chiếu, chân tay thò ra ngoài, lọc cọc, rập rình, xe đu đưa những cánh tay, cẳng chân cũng đu đưa theo. Xác chết được đổ đầy vào một cái hố chôn chung, sau đó lấp đất phẳng, không có dấu hiệu mồ mả gì cả”.

- “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc” - Văn Cao viết:

“Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
Đi vào ngõ khói công yên
Thấy bâng khuâng lối cỏ hư huyền
Hương nha phiến chập chờn mộng ảo
Bánh nghiến nhựa đường nghe sào sạo
Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực..”

Chia sẻ bởi: 👨 Trịnh Thị Thanh
Mời bạn đánh giá!
  • Lượt tải: 02
  • Lượt xem: 890
  • Dung lượng: 117,6 KB
Liên kết tải về
Sắp xếp theo