Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích 3 Dàn ý & 10 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất
TOP 10 bài Cảm nhận 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất, kèm theo 3 dàn ý chi tiết, giúp các em thấy rõ tâm trạng cô đơn, buồn tủi, đau khổ tới tuyệt vọng của nàng Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Qua những câu thơ ngắn gọn, những cũng đủ cho chúng ta thấy được tâm trạng đầy đau khổ của Kiều cùng nỗi nhớ quê hương, gia đình da diết và dự cảm về một tương lai không lành. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:
Cảm nhận của em về 8 câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Dàn ý cảm nhận về 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Đoạn văn cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Cảm nhận tám câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích hay
- Cảm nhận 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn gọn
- Cảm nhận về 8 câu thơ cuối Kiều lầu Ngưng Bích
- Cảm nhận 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 1
- Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 2
- Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 3
- Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 4
- Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 5
Dàn ý cảm nhận về 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích
Dàn ý 1
1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác phẩm, tác giả, đoạn trích và tám câu thơ cuối.
2. Thân bài:
a. Cặp lục bát thứ 1: "Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa"
- Không gian: nơi "cửa bể", rộng lớn mênh mông.
- Thời gian: "chiều hôm" là khi bóng đêm dần bao phủ, đây là khoảng thời gian tĩnh nên dễ khơi dậy những tâm sự buồn.
- Cảnh vật: "thuyền ai thấp thoáng" càng làm không gian cô quạnh, mênh mông hơn.
- Nghệ thuật: đảo ngữ "thấp thoáng" lên trước, cùng từ láy "xa xa": gợi cảm giác nhớ bé của con thuyền.
b. Cặp lục bát thứ 2: "Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu".
- Hình ảnh "hoa trôi": ẩn dụ cho cuộc đời người lênh đênh, vô định, "bảy nổi ba chìm".
- Hai từ "về đâu": gợi cảm giác về tương lai mịt mù, không thể tự định đoạt của Thúy Kiều.
c. Cặp lục bát thứ 3: "Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh".
- "Rầu rầu": chỉ sự ảm đạm, úa tà
- "xanh xanh": trời đất hoà cùng một sắc, nối liền một dải, không thấy sự sống con người.
→ Câu thơ thể hiện tâm trạng chán chường, mệt mỏi đến tuyệt vọng của Kiều.
d. Cặp lục bát thứ 4: "Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi".
- Tiếng sóng "ầm ầm": gợi lên sự dữ dội, ẩn dụ cho những sóng gió cuộc đời của Kiều.
- Thể hiện nỗi sợ hãi, dự cảm không lành về số phận tương lai của chính nàng.
d. Đánh giá chung về nội dung, nghệ thuật:
- Nội dung: Bộc lộ tâm trạng cô đơn, lạc lõng cùng những dự cảm không lành của Thúy Kiều về tương lai.
- Nghệ thuật:
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình vô cùng đặc sắc.
- Điệp từ "Buồn trông": điệp khúc của tám câu thơ, thể hiện sự trầm buồn
- Hệ thống từ láy được sử dụng khéo léo để diễn tả tâm trạng cô độc của Kiều.
- Nhịp thơ linh hoạt, ngôn ngữ giàu chất tạo hình.
3. Kết bài:
- Khẳng định giá trị của tám câu thơ cuối và đoạn trích.
Dàn ý 2
1. Mở bài
Giới thiệu về nội dung đoạn trích và tám câu thơ cuối:
- Đoạn trích miêu tả tâm trạng đau buồn, tủi phận của Thúy Kiều khi gặp biến cố bị bán vào lầu xanh, tự tử không thành và bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Đoạn trích có nhiều giá trị nghệ thuật đặc sắc.
- Tám câu thơ cuối diễn tả “nỗi lòng tê tái” của Kiều trong những ngày đầu tiên của kiếp đoạn trường.
2. Thân bài
Phân tích bốn cặp thơ lục bát “buồn trông” để thấy được những đặc sắc nội dung và nghệ thuật:
a. Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
- Không gian, thời gian, cảnh vật:
- Không gian cửa bể mênh mông, rộng lớn
- Thời gian: chiều hôm. Trong ca dao, thơ ca, thời điểm chiều tà là thời điểm dễ khiến con người buồn, nhớ (dẫn chứng một vài câu thơ, câu ca dao: Chiều chiều ra đứng ngõ sau/ Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều…)
- Cảnh vật: chỉ có bóng con thuyền và cánh buồm thấp thoáng, càng khiến không gian trở nên mênh mông, cô quạnh, không một bóng người.
- Nghệ thuật: đảo ngữ thấp thoáng lên trước, cùng từ láy xa xa làm tăng thêm cảm giác xa xôi, nhỏ bé của con thuyền, tăng cảm giác cô độc của nhân vật.
b. Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
- Hình ảnh ẩn dụ: hoa trôi trên dòng nước ẩn dụ cho thân phận người con gái chìm nổi trên dòng đời. Kiều nhìn cánh hoa trôi mà cảm thương cho số phận chìm nổi lênh đênh của mình.
+ Liên hệ với ca dao: Thân em như thể bèo trôi/ Sóng dập gió dồi biết tựa vào đâu; Thân em như thể cánh bèo/ Ngược xuôi xuôi ngược theo chiều nước trôi…
⇒ Cánh hoa, cánh bèo, cánh lục bình… đều ẩn dụ cho sự mong manh, yếu đuối, không thể tự định đoạt của thân phận người con gái trong xã hội phong kiến. Sóng, dòng nước ẩn dụ cho cuộc đời.
c. Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
- Màu sắc của cảnh vật:
- “Rầu rầu”: màu sắc ảm đạm, úa tàn
- “Xanh xanh”: ý nói không gian không có sự sống con người, trời đất lẫn vào nhau một màu xanh.
⇒ Tâm trạng mệt mỏi chán chường của Thúy Kiều, nhìn đâu cũng thấy sự ảm đạm, thê lương; câu thơ tiêu biểu cho thủ pháp tả cảnh ngụ tình trong đoạn thơ (người buồn cảnh có vui đâu bao giờ).
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
- Âm thanh dữ dội của sóng, gió gợi sự kinh hãi. Câu thơ như báo trước những sóng gió trong cuộc sống sắp tới với Kiều.
d, Đánh giá chung về nghệ thuật của đoạn thơ
- Điệp từ “buồn trông”: tạo nên âm hưởng trầm buồn, như một điệp khúc của đoạn thơ, là ngọn nguồn lí giải cảnh sắc trong đoạn thơ.
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình: cảm xúc của Thúy Kiều ảnh hưởng tới cảnh vật nàng nhìn thấy ⇒ cảnh nào cũng buồn, cô quạnh, u ám, đáng sợ.
- Hệ thống từ ngữ tả cảnh: tính từ, từ láy.
- Nhịp thơ thay đổi ở 2 câu cuối: đang từ chậm buồn trở nên gấp gáp.
- Thủ pháp đối lập giữa 2 câu cuối và 6 câu trước: âm thanh dữ dội đối lập với những hình ảnh ảm đạm.
- Hình ảnh được tả từ xa đến gần: sự thay đổi điểm nhìn của nhân vật, đứng trên lầu cao nhìn từ xa lại.
3. Kết bài
Tổng kết về nội dung và nghệ thuật:
- Nội dung: Nỗi buồn, lo sợ của Thúy Kiều trong cảnh cô đơn, vô vọng, phiêu bạt. Dự cảm về số phận bất hạnh đầy sóng gió của Kiều. Thể hiện sự cảm thông, thấu hiểu, thương xót số phận người phụ nữ của Nguyễn Du.
- Nghệ thuật: thủ pháp tả cảnh ngụ tình, điểm nhìn trần thuật được đưa từ xa tới gần làm tăng thêm giá trị nội dung.
Dàn ý 3
1. Mở bài:
- Giới thiệu về đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".
- Giới thiệu 8 câu thơ cuối bài.
2. Thân bài:
a) Nội dung:
- Cặp câu lục bát đầu tiên:
- Thời gian: Chiều hoàng hôn -> Gợi buồn.
- Không gian: Cửa bể -> Mênh mông, rộng lớn.
- Cánh buồm: Gợi nỗi nhớ nhà.
- Thấp thoáng, xa xa: từ láy thể hiện sự nhỏ bé của con thuyền, càng tô đậm thêm cho không gian bao la.
=> Nỗi buồn cô đơn, lẻ loi trước khung cảnh rộng lớn.
- Cặp lục bát thứ hai:
- Hoa trôi: Ẩn dụ cho thân phận người con gái lênh đênh, chìm nổi, trôi vô định không biết bến bờ.
- Man mác: Từ láy chỉ nỗi buồn.
- Biết là về đâu: Câu hỏi tu từ gợi lên tương lai mù mịt, không xác định.
=> Nỗi buồn về số phận lênh đênh chìm nổi của người con gái.
- Cặp lục bát thứ ba:
- Rầu rầu: từ láy chỉ sự ảm đạm, héo úa của tâm trạng và cảnh vật.
- Chân mây mặt nước: Không gian rộng lớn kéo dài vô tận.
- Xanh xanh: Từ láy chỉ màu xanh tẻ nhạt, nhàm chán.
- => Tâm trạng mệt mỏi, vô vọng, chán chường của nàng Kiều.
- Cặp lục bát thứ tư:
- "Gió cuốn mặt duềnh": Những biến đổi nhỏ báo hiệu cơn bão lớn.
- "Ầm ầm": Âm thanh chỉ tiếng bão dữ dội, ẩn dụ cho những khó khăn sắp tới trong cuộc đời kiều.
=> Dự cảm, lo âu về tương lai của chính mình sẽ có điều gì đó chẳng lành.
b) Nghệ thuật:
- Điệp từ "Buồn trông" nhấn mạnh tâm trạng của Thúy Kiều.
- Tám câu thơ là tuyệt bút về tả cảnh ngụ tình.
- Từ láy được chọn lọc, sử dụng khéo léo.
3. Kết bài:
- Nêu cảm nhận về tám câu thơ cuối đoạn trích.
Đoạn văn cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích
Tám câu thơ, mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn sâu thẳm. “Buồn trông” là buồn mà nhìn xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như nàng mong một cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng, xa xa, không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc một xa. Nàng lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển (theo Lê Văn Hòe), ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu dạt, không biết về đâu. Kiểu ngồi trên lầu cao làm sao thấy được cánh hoa trên dòng nước. Đây chỉ là cảnh nàng tưởng tượng về số phận mình. Nàng lại trông thấy đồng cỏ úa tàn, chân mây, mặt đất một màu mờ mịt xanh xanh, tưởng như mịt mùng không có chân trời. Nàng lại “trông gió cuốn mặt duềnh”. “Duềnh” là chỗ biển ăn sâu vào đất liền, thành vựng (theo Thạch Giang). "Gió cuốn mặt duềnh" làm cho sóng vỗ dào dạt, ầm ầm... Tất nhiên, dù lầu Ngưng Bích có rất gần bờ biển cũng không thể nghe được "tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi" được. Đây là hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm nàng xuống vực. Tám câu thơ, câu nào cũng vừa thực vừa hư, vừa là thực cảnh, vừa là tâm cảnh. Toàn là hình ảnh về sự vô vọng, sự dạt trôi, sự bế tắc và sự chao đảo, nghiêng đổ. Đây chính là lúc mà tình cảm Kiều trở nên mong manh và yếu đuối nhất, là lúc mà nàng rất dễ rơi vào cạm bẫy, như nàng sẽ rơi vào tay Sở Khanh sau này. Trong đoạn thơ này, không gian bao la rợn ngợp, không một bóng người. Thời gian như dồn lại, không biết bao nhiêu buổi sáng, buổi chiều lặp lại. Con người trở nên nhỏ bé, bất lực, trơ trọi. Nghệ thuật trùng điệp như kéo dài nỗi buồn vô vọng, vô tận của con người.
Cảm nhận tám câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích hay
"Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một trong những đoạn trích đặc sắc của Nguyễn Du viết về tâm trạng của nàng Kiều. Nhất là ở tám câu thơ cuối đoạn trích, tác giả đã thể hiện thành công nỗi cô đơn cùng những dự cảm không lành về tương lai của nàng Kiều.
Ở cặp lục bát đầu tiên, Thúy Kiều ở nơi đài son gác tía nhìn ra nơi cửa bể mênh mông rộng lớn. Trong buổi chiều hoàng hôn đầy nỗi buồn, con thuyền bé nhỏ, thấp thoáng càng khiến cho không gian thêm mờ ảo, mênh mông hơn. Hình ảnh "hoa trôi" ở cặp lục bát thứ hai chính là sự ẩn dụ cho cuộc đời người con gái chìm nổi, lênh đênh.
Câu hỏi tu từ "biết là về đâu" thể hiện sự bơ vơ, vô định, mất phương hướng của nhân vật trữ tình. Nàng không thể đoán trước được tương lai mình sẽ lại có những bi kịch gì xảy ra tiếp theo. Cặp câu tiếp theo đã diễn tả không gian ảm đạm xung quanh lầu Ngưng Bích. Khắp nơi đâu đâu cũng là một màu xanh, từ ngọn cỏ đến chân mây, mặt đất nối liền một dải cũng vậy. Nàng Kiều đang kiếm tìm một màu sắc, một sự vật khác làm cho khung cảnh trở nên tươi tắn hơn, nhưng càng tìm kiếm, nàng càng vô vọng, chán chường. Sắc thái của cặp lục bát cuối cùng trở nên dữ dội hơn với tiếng sóng "ầm ầm". Đây chính là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn mà Thúy Kiều sắp gặp phải. Câu thơ thể hiện nỗi sợ vô hình, dự cảm về tương lai chẳng lành của chính bản thân mà không làm gì được.
Từ đó, ta thấy tâm trạng cô đơn, lạc lõng và lo sợ trong bất lực của Kiều. Ngoài nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du còn sử dụng điệp từ "buồn trông" kết hợp với các từ láy, nhịp thơ linh hoạt để nhấn mạnh nỗi cô đơn, nỗi bất lực của Kiều về chính số kiếp mình.
Cảm nhận 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn gọn
Nguyễn Du là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và các biện pháp, bút pháp nghệ thuật để miêu tả con người, cảnh vật thông qua thơ. Một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc nhất của ông chính là tám câu thơ cuối đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".
"Kiều ở lầu Ngưng Bích" là đoạn trích thuộc phần "Gia biến và lưu lạc" của tác phẩm "Truyện Kiều". Đoạn thơ này có nội dung diễn tả tâm trạng nàng Kiều khi bị Tú Bà giam lỏng trong lầu Ngưng Bích vì không chịu tiếp khách. Đó là sự cô đơn, nhớ nhà, nỗi bất lực khi phải chôn vùi tuổi xuân ở nơi son phấn. Và trong tám câu cuối, Thúy Kiều đã bộc lộ những nỗi đau đớn, buồn tủi, tâm trạng bất an về tương lai của chính mình.
Ở cặp thơ lục bát đầu tiên, Nguyễn Du viết:
"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa"
Ở nơi lầu son gác tía cô quạnh, lại vào khi hoàng hôn xuống, nỗi cô đơn như bủa vây tâm hồn Thúy Kiều. Nàng nhìn ra phía biển xa thấy có cánh buồm thấp thoáng đâu đó. Nỗi nhớ nhà trào lên quặn thắt trong lòng. Thế nhưng, nàng lại bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích, không thể trở về được nữa. Đứng trước không gian bao la, rộng lớn, con thuyền phía "xa xa" càng trở nên bé nhỏ hơn bao giờ hết.
"Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu"
Cặp thơ lục bát thứ hai đã nhắc đến hình ảnh "hoa trôi". Bông hoa trôi trên mặt nước thường để chỉ những người con gái đẹp nhưng lại có số phận lênh đênh, chìm nổi. Cũng như chính nàng Kiều tài sắc vẹn toàn nhưng lại không thể tự quyết định cuộc đời của mình, chỉ có thể để mặc cho dòng đời đưa đẩy. "Man mác" là từ láy gợi buồn, kết hợp với câu hỏi tu từ "biết là về đâu?" tạo cho ta cảm giác về một tương lai mù mịt như một làn sương, không thể xác định hay đoán trước được bất cứ điều gì sẽ xảy đến.
"Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt nước một màu xanh xanh"
Ở cặp thơ này xuất hiện những hai từ láy. "Rầu rầu" chỉ sự ảm đạm, tàn úa của hoa cỏ. "Xanh xanh" ở đây không phải là sắc màu hi vọng như ta vẫn thường nghĩ mà lại chỉ sự tẻ nhạt. Trời đất nối liền một dải màu xanh. Trong buổi chiều buồn, hoa cỏ héo úa, màu xanh ấy càng trở nên vô vị, nhàm chán, đại diện cho sự ảm đạm từ trong lòng của Thúy Kiều. Có phải là sự tẻ nhạt của sắc màu không gian khiến cho nàng Kiều cảm thấy chán nản. Hay chính tâm trạng ủ dột của nàng đã phủ lên không gian một lớp ảm đạm, không có sức sống? Bởi vì "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" nên cảnh vật xung quanh nàng mới trở nên hiu hắt, buồn chán đến vậy. Cả không gian mênh mông rộng lớn ấy đều mang một màu xanh tang thương, khiến lòng Kiều trở nên mệt mỏi, tuyệt vọng.
Ở cặp lục bát cuối cùng, những dự cảm không lành về tương lai dần dần hiện ra rõ ràng:
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
Sắc thái biểu cảm của câu thơ này đã trở nên mạnh mẽ hơn nhờ từ láy "ầm ầm". Đây là âm thanh của những cơn sóng dữ dội, những trận mưa lớn trong thiên nhiên. Khi nhìn về phía cửa biển, nàng đã thấy có gió bắt đầu nổi lên. Đáng lẽ, tiếng "ầm ầm" phải xuất phát từ phía đằng xa đó nhưng nàng Kiều lại tưởng tượng như âm thanh ấy "quanh ghế ngồi". Đây chính là sự ẩn dụ cho những sóng gió tiếp theo trong cuộc đời Thúy Kiều. Nàng đã dự cảm được trước những điều không may sẽ đến với mình trong tương lai nhưng lại chẳng làm được gì. Đây là một cảm giác rất khó chịu, đáng sợ, biết những tai ương sẽ đến nhưng lại chẳng thể tránh, chỉ có thể ngồi chờ cho qua cơn sóng dữ qua đi mà thôi.
Qua tám câu thơ cuối đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích", Nguyễn Du đã cho ta thấy tâm trạng cô đơn, lạc lõng của Kiều cùng những nỗi lo sợ không tên về tương lai mù mịt. Thi nhân đã sử dụng phép điệp ngữ "Buồn trông" được lặp lại ở đầu từng cặp câu thơ để thể hiện nỗi lòng nhân vật. Ngoài ra, tác giả còn lồng ghép rất nhiều từ láy gợi hình, gợi cảm, khiến cho câu thơ trở nên độc đáo, đặc biệt khó quên.
Có thể nói, tám câu thơ cuối đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là những câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất, đặc trưng nhất trong văn chương Việt Nam. Qua đó, ta cảm thấy thấu hiểu hơn cho nỗi lòng cô đơn, đau khổ của Kiều khi không thể chọn lựa những bước đi của mình dù biết phía trước là cơn sóng dữ.
Cảm nhận về 8 câu thơ cuối Kiều lầu Ngưng Bích
Thể thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc. Thể thơ ấy không chỉ thể hiện được cái tài hoa của người tác giả mà nó còn cho thấy cái hồn của tiếng Việt. Nhà thơ Nguyễn Du chọn thể thơ lục bát khi viết Truyện Kiều là ông đã làm được cả 2 điều trên. Truyện Kiều trở thành áng thi ca bất hủ của mọi thời đại. 8 câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích cũng đủ cho ta thấy được cái tài của Nguyễn Du khi tả cảnh ngụ tình. Cho đến nay, có lẽ chưa ai làm được điều này tốt như ông.
Thúy Kiều được miêu tả ở là người “sắc đành đòi một tài đành họa hai” nhưng “chữ tài đi với chữ tai một vần”. Những năm tháng “êm đềm chiếu rủ màn che” nhanh chóng kết thúc, thay vào đó là những năm tháng bi thương mà mở đầu là chuỗi ngày Kiều ở lầu Ngưng Bích:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Đây có lẽ là giai đoạn khó khăn với Thúy Kiều khi mà cuộc sống đã thay đổi hoàn toàn. Những ngày đầu tiên của kiếp đoạn trường, Kiều thương mình, thương gia đình, thương cả mối tình vừa mới chớm nỏ nhưng đã vội chia lìa. Lòng nàng đau như cắt và nó khiến cho khung cảnh xung quanh cũng trở nên ảm đạm theo. Trong 8 câu cuối này, hai tiếng “buồn trông” được nhắc lại tới 4 lần. Có thể thấy lúc này, Kiều không còn ai để dựa vào ngoài chính mình. Nàng mong chờ thiên nhiên tươi đẹp mang đến cho nàng chút gì đó làm niềm vui nhưng không, với đôi mắt “buồn trông” thì nàng không thể nhìn thấy những điều tốt đẹp.
Thúy Kiều hướng đôi mắt của mình về phía xa, nơi có nhà của nàng, có một người nàng thương yêu nhưng chưa kịp nói lời từ biệt:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buổi chiều hôm là lúc mà khung cảnh trở nên ảm đạm. Cộng thêm cái nhìn của Thúy Kiều về nơi cửa bể quạnh hiu càng làm tăng thêm sự nhỏ bé, nỗi cô đơn của Thúy Kiều. Xót xa thay cho người con gái bé nhỏ. Nàng tìm kiếm cho mình một chút hiện diện của sự sống như mong muốn vơi đi nỗi cô đơn của mình:
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Có thuyền, ắt hẳn phải có người. Nhưng sự sống ấy ở xa quá, chẳng đủ làm khỏa lấp nỗi cô đơn của Thúy Kiều. Hai chữ “thấp thoáng”, “xa xa” chỉ làm tăng thêm cảm giác cô liêu. Bấu víu vào cánh buồm xa không được, Thúy Kiều hướng ánh mắt buồn trông về phía ngọn nước:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Cụm từ hoa trôi man mác khiến ta liên tưởng đến cánh bèo trôi. Cánh bèo thường được ví như thân phận của người phụ nữ. Hoa trôi về đâu? Cuộc đời của Thúy Kiều sau này sẽ đi về đâu? Thúy Kiều đặt ra câu hỏi cho cánh hoa nhưng cũng là đặt câu hỏi cho chính cuộc đời mình. Câu hỏi không có câu trả lời. Về đâu? Thúy Kiều cũng không biết được. Một cánh hoa trôi trên dòng nước lạnh lẽo, cô độc như Thúy Kiều của thực tại. Kiều lại đưa mắt về với mặt đất:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Cỏ xanh không còn rợn chân trời như ngày tết thanh minh nữa mà giờ đã trở nên rầu rầu như tâm trạng của con người. Phải chăng, ngọn cỏ cũng hiểu cho tâm trạng của Kiều? Tâm trạng buồn rầu ấy phủ ngập lấy không gian xung quanh. Kiều nhìn xa về phía chân mây rồi lại nhìn gần xuống mặt đất nhưng nơi đâu cũng chỉ thấy một màu xanh xanh. Đó là một màu xanh xám ảm đạm của buổi chiều tà chứ không còn là màu xanh của sự sống trong tiết trời mùa xuân nữa. Chính nỗi buồn của Thúy Kiều đã nhuộm buồn màu xanh của cảnh vật nơi lầu Ngưng Bích. Trong khung cảnh ấy, chỉ có Thúy Kiều với nỗi cô đơn, buồn tủi trong lòng. Nàng tha thiết tìm một tiếng vọng của sự sống nhưng không, những gì nàng nhận về chỉ có âm thanh của tự nhiên:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Cách lựa chọn từ ngữ của Nguyễn Du rất tinh tế. Tất cả đều nhằm nói lên thân phận bèo trôi của Thúy Kiều. Tiếng sóng ầm ầm ở đây là tiếng sóng lòng của Thúy Kiều. Điều đó đủ cho ta thấy trong lòng nàng tâm trạng giằng xé dữ dội như thế nào. Tiếng sóng không làm phá vỡ không gian yên tĩnh của không gian mà nó càng làm khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn của Kiều. Đau đớn lắm chứ bởi lúc cần có người bên cạnh nhất thì Kiều chỉ tìm thấy được sự an ủi nơi thiên nhiên.
Đoạn thơ 8 câu đã nói lên được hết nỗi lòng của nàng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Bên cạnh đó, đoạn thơ cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Du trong việc tả cảnh, ngụ tình. Khép lại đoạn thơ nhưng hình ảnh, âm thanh của nó vẫn sẽ còn lưu lại mãi trong tâm trí người đọc.
Cảm nhận 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích
Đại thi hào Nguyễn Du là bậc thầy sử dụng ngôn ngữ cũng như việc sử dụng các bút pháp nghệ thuật để miêu tả cảnh vật, miêu tả con người, đặc biệt là miêu tả nội tâm nhân vật. Một trong những đoạn trích miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc nhất của Nguyễn Du chính là đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Qua tám câu thơ cuối của đoạn trích, ta có thể thấy được tâm trạng đau đớn, buồn tủi và cô đơn của nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích và tài năng nghệ thuật xuất sắc của đại thi hào.
Tám câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có thể được coi là đỉnh cao trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du. Bốn cặp thơ lục bát không chỉ cho thấy được đau đớn, cô đơn tột cùng của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở chốn lầu Ngưng Bích mà còn mang những dự cảm về một tương lai sóng gió, gập ghềnh.
Mở đầu mỗi bức tranh tâm trạng là điệp ngữ "buồn trông". "Buồn trông" lặp lại bốn lần tạo thành điệp khúc trầm buồn, bộc lộ nội tâm nhân vật với nỗi buồn đang dâng lên tầng tầng lớp lớp, ngập tràn trong tâm hồn. Cảnh vật nơi lầu Ngưng Bích như thấu hiểu, đồng điệu với nỗi đau của Thúy Kiều nên mỗi hình ảnh mà nàng nhìn đều thấm đượm một nỗi buồn da diết.
"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa"
Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều được mở đầu bởi hình ảnh của bóng chiều hoàng hôn. Hoàng hôn như nhuộm đỏ cả bức tranh, cả không gian mênh mông và thời gian. Qua con mắt của Kiều, bóng hoàng hôn ấy thật trầm buồn, u uất như lớp lớp nỗi sầu đang trào dâng trong tâm hồn của nàng. "Chiều hôm" là khi bóng đêm dần bao phủ, đây là khoảng thời gian tĩnh nên dễ khơi dậy những tâm sự buồn trong tâm hồn con người. Không gian chiều tà mênh mông rộng lớn làm cho Thúy Kiều thấm thía hơn nỗi cô đơn, bé nhỏ và tình cảnh trớ trêu của mình ở nơi lầu xanh "khoá xuân" này. Không gian cộng hưởng càng khiến cho tâm hồn của người con gái xa nhà thêm buồn tủi, cô đơn, xót xa. Giữa mênh mông sóng nước vô tận mà cô độc ấy, Kiều mong mỏi một chút hơi ấm, một sự xuất hiện của sự sống để khiến nàng vơi đi sự cô đơn của mình. Và bóng "thuyền ai thấp thoáng" chính là biểu tượng của sự sống con người. Thế nhưng đó chỉ là một chiếc thuyền không rõ, hư ảo mịt mờ "thấp thoáng" ở nơi "xa xa". Nguyễn Du đã đặt ở đây từ láy "thấp thoáng" và "xa xa" cùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh sự nhỏ bé, xa xôi, mơ ảo của con thuyền nơi cửa bể. Chiếc thuyền lênh đênh nơi "cửa bể" mờ mịt, không bến không bờ, vô định như chính cuộc đời của Kiều hiện tại. Nhìn con thuyền - biểu tượng cho sự sống của con người, ngỡ như nó mang tới cho Kiều một chút ấm áp nhưng trái lại nó lại càng gợi lên sự cô quạnh, gợi lên nỗi sầu lạc lõng vô biên trong tâm hồn chơi vơi của Kiều.
Nhìn xa ra nơi "cửa bể" nhưng không thể tìm thấy chút sẻ chia ấm áp, Kiều đành hướng mắt nhìn về nơi con nước gần bên mình:
"Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?"
Giữa dòng nước đang cuộn chảy phía dưới chân Kiều, những cánh hoa đang xoay tròn rồi bị cuốn trôi đi. Những cánh hoa mỏng manh ấy là ẩn dụ về số phận của người con gái chìm nổi giữa dòng đời, gợi nhắc Kiều về số phận của một kiếp hồng nhan trôi dạt, lênh đênh. Những cánh hoa ấy nổi trôi bồng bềnh "bảy nổi ba chìm" như chính số phận của Kiều hiện tại. Câu hỏi tu từ "hoa trôi man mác biết là về đâu?" như xoáy vào trong tâm tư người đọc những trăn trở, những xót xa cho kiếp hồng nhan mỏng manh, phải phiêu bạt nơi chốn xa xôi, lạc lõng, cô đơn tới tuyệt vọng. Hai từ "về đâu" ở cuối câu thơ với hai thanh bằng tạo nên một cảm giác vô định như chính tình thế hiện thời của nàng. Ngồi một mình trong chốn thanh lâu, Kiều muốn tìm đến với thiên nhiên để vơi bớt đi nỗi lòng đau xót, tủi hờn, cô đơn của mình, thế nhưng, càng nhìn Kiều lại càng thấy nỗi sầu thêm chất chứa sâu nặng, tâm trạng càng thêm rối bời.
Nhìn về dòng nước, về cửa bể không tìm thấy chút niềm thân mật, an ủi, Kiều trở về với những ngọn cỏ xanh bên đôi bờ:
"Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt nước một màu xanh xanh"
Những tán cỏ xanh tưởng như sẽ giúp nàng xoa dịu chút ưu phiền, thế nhưng tất cả chỉ nhuốm một màu úa tàn, ảm đạm "rầu rầu". Đã không còn những "cỏ non xanh tận chân trời" như trong những ngày Kiều còn "êm đềm", tự do trong "trướng rủ màn che", giờ đây, những ngọn cỏ non xanh cũng nhuộm một màu tâm trạng của kiếp người lênh đênh. Nhìn từ xa tới gần, từ "chân mây" tới "mặt nước", tất cả không gian đều nhuốm một màu "xanh xanh" rợn ngợp. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng chán chường, ảm đạm đến thê lương của Kiều. Nỗi buồn đó của nàng còn thấm vào cảnh vật, vào không gian. Vốn là một khoảng không rộng lớn, với những màu xanh biêng biếc của cỏ non, của chân trời, vậy nhưng qua con mắt của Kiều, nó trở nên rợn ngợp và cô liêu biết bao. Không một âm thanh, không một tiếng động, chỉ có sự vắng lặng đến thê lương bao trùm lấy cảnh và người. Nguyễn Du đã vận dụng thật khéo léo nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở đây để làm nổi bật lên tâm trạng chán chường tới tuyệt vọng của Thuý Kiều.
Trong khung cảnh vắng lặng đến rợn ngợp ấy, Kiều muốn nghe được một tiếng vọng hồi đáp của con người để nàng cảm thấy được an ủi, để không cảm thấy sự cô đơn đến tuyệt vọng trong lòng, thế nhưng đáp lại, nàng chỉ nghe thấy tiếng sóng, tiếng gió, tiếng nước của thiên nhiên:
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi"
Tất cả những cảnh vật xung quanh: gió, nước, sóng, đều gợi lên số phận lênh đênh, nổi trôi của nàng Kiều. Những "tiếng sóng" đang "ầm ầm" xung quanh nàng khiến cho Kiều sợ hãi. Bởi tiếng sóng ấy như là một lời dự cảm, một sự báo hiệu cho số phận tương lai đầy sóng gió của Kiều. "Tiếng sóng" "ầm ầm" "quanh ghế ngồi" ấy cũng khắc sâu tâm trạng đau đớn của Kiều. Bởi xung quanh nàng chỉ có thiên nhiên vắng lặng đến rợn ngợp mà chẳng thấy có một sự ấm áp nào của sự sống con người.
Qua 8 câu thơ, ta có thể thấy được bút pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa của Nguyễn Du. Điệp từ "buồn trông" cũng tạo nên nhịp điệu trầm buồn, điệp khúc mở đầu cho tám câu thơ. Cùng với đó, Nguyễn Du cũng vận dụng rất khéo léo hệ thống từ láy để tạo nên bức tranh tâm trạng của Kiều rất đặc sắc. Nhịp thơ thay đổi linh hoạt cùng ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình, tất cả làm nên thành công cho bức tranh tâm trạng của Kiều.
Tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã cho ta thấy được tâm trạng của Kiều khi bị lừa giam lỏng thông qua bút pháp miêu tả nội tâm cực kì đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du. Đồng thời nó còn cho ta thấy rõ được tấm lòng thương cảm sâu sắc, thấu hiểu cho số phận những người con gái tài hoa bạc mệnh. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những trích đoạn hay nhất trong thiên tuyệt phẩm Truyện Kiều.
Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 1
Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh từng khẳng định: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn", còn nhà thơ Chế Lan Viên lắng sâu và tinh tế khi cất lên lời thơ: "Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn". Bao thế kỉ qua, Truyện Kiều đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với mỗi người dân Việt Nam. Những trang thơ có sức cuốn hút diệu kỳ, vương vấn mãi tâm hồn ta, mang đến cho ta niềm cảm thương sâu sắc với "tấm gương oan khổ" Thúy Kiều, đem lại cho ta những khoái cảm thẩm mĩ đặc biệt trước những lời thơ như hoa, như gấm:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
...
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Tám câu thơ trích trong đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là những vần thơ có sức ám ảnh nhất của đoạn trích, diễn tả thành công "nỗi lòng tê tái" của Kiều trong những ngày đầu tiên của kiếp đoạn trường.Hai tiếng "buồn trông" được lặp lại bốn lần trong đoạn trích, vừa như gói trọn tâm thế của Kiều "trước lầu Ngưng Bích", vừa tạo nhịp điệu đều đều, buồn thương cho đoạn thơ. Ở nơi "khóa xuân", Kiều chỉ biết lấy thiên nhiên làm điểm tựa, và từ điểm tựa đó nàng nhận thức về số kiếp của mình. Tầm nhìn của nàng trước hết hướng ra xa, vì nơi xa đó là nhà nàng, là nơi có những người thân yêu nhất:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”
Không gian xa rộng, quạnh hiu nơi cửa bể như càng làm nổi rõ hơn thân phận nhỏ bé, cô đơn của Kiều. Không gian ấy cộng hưởng cùng thời gian "chiều hôm" - thời khắc gợi nhớ, gợi buồn - khiến như thấm sâu hơn vào tâm hồn người con gái nơi xứ lạ nỗi niềm xót xa. Giữa khung cảnh ấy, trái tim cô đơn, tâm hồn trống vắng cần lắm một hơi ấm, một sự hiện diện của sự sống: Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? "Thuyền" chính là hình ảnh biểu tượng cho sự sống con người. Nhưng đó là sự hiện hữu mờ mờ, như có như không, được diễn tả qua hai từ "thấp thoáng", "xa xa". Sự xuất hiện mờ ảo của cánh buồm không làm cho khung cảnh thêm thân mật, ấm áp mà càng gợi sầu, gợi cảm giác cô liêu cho con người. Không tìm thấy sự sẻ chia từ nơi cửa biển xa xăm, Kiều hướng tầm mắt về "ngọn nước" gần mình hơn:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Giữa dòng nước, cánh hoa trôi man mác như gợi nhắc thân phận cảnh bèo trôi dạt của người trong cảnh. Câu hỏi tu từ như xoáy vào tâm hồn người đọc. Thân phận cánh hoa hay chính là những trăn trở, xót xa cho số kiếp mỏng manh, phiêu bạt của Kiều? Hai tiếng "về đâu" cuối câu thơ với thanh không càng tạo cảm giác xa vắng, vô định, như tương hợp với tâm thế hiện thời của Kiều. Tìm đến với thiên nhiên đó mong sao vơi bớt mối sầu chất chứa trong lòng nhưng càng nhìn cảnh, tâm trạng lại càng rối bời. Dường như nước gợi lên sự lạnh lẽo, bất định, chảy trôi nên Kiều tìm về với bờ cỏ xanh, với mặt đất: Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Nhưng cỏ cũng mang tâm trạng buồn thương của người: "rầu rầu". Đâu còn là "cỏ non" xanh tận chân trời trong tiết thanh minh khi Kiều còn sống những ngày tháng "Êm đềm trướng rủ màn che". Cảnh nơi xứ lạ như thấu cảm nỗi niềm của Kiều nên nhuốm màu tâm tư của kiếp người phiêu bạt. Nỗi "rầu rầu" ấy tràn ngập, lan tỏa khắp không gian: Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Cái nhìn bao quát từ "chân mây" xa xăm đến "mặt đất" gần gũi, tất cả đều "một màu xanh xanh". Nó khác lắm cái sắc xanh tràn ngập nhựa sống của tiết trời mùa xuân.Cỏ non xanh tận chân trời và cũng không giống màu áo xanh tinh khôi của chàng Kim trong ngày đầu gặp gỡ:
“Tuyết in sắt ngựa câu giòn.
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.”
Màu xanh của không gian nơi lầu Ngưng Bích là màu xanh gợi buồn. Nỗi buồn của người pha vào cảnh vật, mang theo bao tái tê. Không gian trở nên rợn ngợp, cô liêu. Sự vắng lặng bao trùm cảnh vật càng tô đậm tiếng lòng thổn thức của người trong cảnh. Kiều cảm thấy cần một tiếng vọng của sự sống con người nhưng đáp lại nàng chỉ có những thanh âm hào hùng của thiên nhiên.
Gió thổi, nước trôi... tất cả đều gợi sự chảy trôi, như thân phận "Bên trời góc bể bơ vơ" của nàng Kiều. Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm như tiếng gào thét của lòng người trong cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Tầm nhìn của Kiều hướng từ xa về gần, từ cao đến thấp, mong mỏi kiếm tìm một sự đáp vọng. Thanh âm duy nhất đáp lại nàng là tiếng sóng "ầm ầm" "kêu quanh ghế ngồi". Nó không làm cho không gian vang động hơn mà càng khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn lẫn dự cảm lo âu về tương lai của Kiều. Xót xa biết bao, đớn đau biết bao! Chỉ có thiên nhiên bên nàng, sẻ chia "tấm lòng'' với nàng. Đó chính là thời khắc Kiều thấm thía nhất nỗi niềm tự thương thân.
Thơ ca chỉ tìm được bến neo đậu nơi lòng người khi đó là tiếng lòng tha thiết, được tạo tác bởi tài năng nghệ thuật chân chính. Đoạn thơ này của Nguyễn Du đã làm được điều đó. Nó không chỉ khắc họa thành công nỗi lòng xót xa, tâm trạng bẽ bàng của Kiều mà còn cho ta thấy nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy của đại thi hào dân tộc. Âm hưởng của những câu thơ này đã, đang và sẽ vang đọng mãi trong tâm trí người đọc.
Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 2
Qua tám câu thơ cuối đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích", Nguyễn Du đã gián tiếp miêu tả tâm trạng Kiều bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng ngoài biển xa mênh mông trong buổi chiều ta gợi lên không gian xa lắc của quê nhà và không khí tĩnh lặng, qua đó thể hiện rõ nỗi nhớ quê hương da diết trong lòng Kiều. Còn hình ảnh “hoa trôi man mác” là hình ảnh tả thực về những bông hoa trôi nổi, bấp bênh trên mặt nước, bị sóng biển vùi dập, xô đẩy, qua đó diễn tả tâm trạng buồn tủi và những dự cảm tinh tế về tương lai không biết sẽ đi đâu về đâu của Thúy Kiều? Ôi cánh hoa mỏng manh như nâng Kiều đang ôm nỗi lo về số phận vô định trên dòng đời. Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” kéo dài đến tận “chân mây” vẫn chỉ một màu xanh đang héo úa ấy đã vẽ lên một cảnh tượng u ám, héo hắt, nó gợi cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn triền miên, vô vọng của Thúy Kiều.
Hai câu thơ cuối cùng tả cảnh "gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” gợi lên rất rõ cả hình ảnh, cả âm thanh của phong ba bão táp hung dữ sắp ập đến cuộc đời Kiều, khiến ta cảm thấy nỗi lo sợ hãi hùng trong lòng người con gái tài hóa trước bao tai họa ào ạt giáng xuống đời nàng. Thêm vào đó, Nguyễn Du còn dùng điệp ngữ “buồn trông” đặt ở đầu những câu thơ nhằm liên kết các hình ảnh trong cả đoạn thơ thành một chuỗi cảnh sầu thảm.
Hơn nữa, từ “buồn trông” mang hai thanh bằng lặp đi lặp lại bốn lần trong bốn cặp thơ lục bát tạo nên âm hưởng trầm, buồn diễn tả nỗi sầu như kéo dài dằng dặc của nhân vật. Tám câu thơ, bốn hình ảnh thiên nhiên, bốn điệp ngữ đã diễn tả thật phong phú, tinh tế mọi sắc thái nội tâm Thúy Kiều.
Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 3
Tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có lẽ là tám câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong tác phẩm, qua đó đã diễn tả sinh động tâm trạng Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, để lại ấn tượng không thể nào quên cho người đọc:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Khung cảnh thiên nhiên của cửa biển trước lầu Ngưng Bích như hiện lên trước mắt ta: một nỗi buồn chiều hoàng hôn đẹp nhưng buồn và quạnh hiu. Đó là những con thuyền với những cánh buồm trắng nhấp nhô, con sóng bạc dập dềnh cuốn trôi từng cánh hoa, lác đác rơi trong ánh nắng cuối chiều, trảng cỏ xanh ươm nối liền đường chân trời xanh vô tận. Cùng với âm thanh dữ dội của biển khơi như một nét chấm phá cho cảnh vặt, bức tranh thiên nhiên chứa đựng trong nó biết bao nỗi niềm chất chứa của con người...
Qua những ngôn từ và hình ảnh miêu tả cảnh vật, bằng cách sử dụng khéo léo và tinh tế bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã cho ta hiểu và cảm thương với tâm trạng nàng Kiều.
Điệp ngữ buồn trông được sử dụng xuyên suốt đoạn trích tạo thành điệp khúc cho đoạn thơ và cũng tạo nên điệp khúc tâm trạng Thuý Kiều. Nỗi buồn trong Kiều như trào dâng như lớp sóng ồ ạt dồn về phía đại dương mênh mông. Nỗi niềm đó cứ triền miên, cứ dai dẳng, đeo bám, tạo thành cái vòng luẩn quẩn không lối thoát, con người ta có muốn vùng thoát ra mà cũng không thể nào được. Mỗi cảnh vật như đều nói lên nỗi niềm tâm sự ấy.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Con thuyền không bến đậu, không nơi chốn quay về gợi nhớ nỗi nhớ, nỗi cô đơn của người đi xa, muốn trở về bên gia đình êm ấm, bên bạn bè thân thương, điều này vó cùng phù hợp với cảnh ngộ của Kiều.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Cuộc đời Kiều bây giờ như cánh hoa mỏng manh trước sóng to gió lớn, chỉ biết mặc cho bão bùng, mưa giông vùi dập. Câu thơ bộc lộ nỗi lo lắng, xót xa, buồn tủi về cảnh ngộ lênh đênh chìm nổi trước sóng gió cuộc đời.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Thảm cỏ, biển cả với màu xanh vô vọng thật buồn và ảm đạm. Liệu có phải cánh cửa tương lai đang khép lại trước mắt Kiều, hố đen tuyệt vọng của số phận như lấp hết cả ước mơ và khát khao.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Ngoài kia, biển xanh đang cuộn sóng. Những âm thanh gợi sự việc kinh khủng, hãi hùng, như dự báo tai biến, nguy nan như chực đổ xuống thân phận bé nhỏ của Kiều.
Lần lượt từng câu hỏi tu từ vang lên như muốn xoáy sâu vào tâm can người đọc. Ta như hiểu, cảm thông, thương xót cho những lo lắng rối bời cùng nỗi hoảng sợ tuyệt vọng của Kiều trước tương lai vô định.
Có thể nói, đây là tám câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất xuyên suốt tác phẩm. Qua bức tranh thiên nhiên, ta xót xa, thương cảm cho số phận người con gái tài hoa bạc mệnh, qua đó cũng bày tỏ niềm đồng cảm, trân trọng của Nguyễn Du đối với số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến xưa.
Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 4
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà sợ mất đi món hàng quý, bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ. Mụ vờ chăm sóc, thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục, sẽ gả cho người tử tế. Sau đó người đàn bà thâm hiểm này đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới. 8 câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là bức tranh tâm trạng đớn đau, tuyệt vọng của Thúy Kiều khi mới bước vào đời.
Đoạn trích nằm giữa hai biến cố đau xót. Đây là những biến cố giúp ta hiểu những bàng hoàng tê tái và sự lo âu về tương lai của nàng Kiều. Tại lầu Ngưng Bích, Kiều không thôi buồn nhớ. Nàng nghĩ đến thân phận hoa trôi bèo nổi của mình rệu rã tâm hồn. Nàng còn nhớ đến Kim trọng, nhớ đến đêm uống rượu hẹn thề mà đắng cay. Thấy thương Kim Trọng rày trông mai chờ mòn mỏi. Rồi nàng thương cha mẹ ngày đêm ngóng chờ. Song thân tuổi già hiu quạnh, không người kề cận mà xót xa trong lòng. Càng suy nghĩ, nàng càng đau đớn và tuyệt vọng. Nhìn ra bốn bề mong tìm lấy một sự trợ giúp nào đó. Thế nhưng, càng mong đợi, lại càng thấy xa vời, mờ mịt hơn:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Đoạn thơ được xem là những dòng tuyệt bút của tác phẩm truyện Kiều. Không những Nguyễn Du gợi tả được nỗi buồn trong lòng người mà còn diễn đạt nó một cách chính xác. Thủ pháp đặc tả nội tâm đạt đến mức độ biện chứng tâm hồn. Chỉ với 8 dòng lục bát, thiên tài họ Nguyễn đã dựng nên bốn bức tranh tâm trạng đặc sắc. Mỗi bức là một ẩn dụ cho một trạng thái tâm lí của Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Khởi đầu mỗi bức là điệp từ liên hoàn “buồn trông”. Điệp ngữ ấy được lặp lại 4 lần tạo âm hưởng trầm buồn. “Buồn trông” trở thành điệp khúc diễn tả nỗi buồn đang dâng lên lớp lớp trong lòng Kiều. Cảnh vật thiên nhiên qua con mắt của Kiều gợi nỗi buồn da diết.
Bóng chiều u uất nhuộm tím cả bức tranh. Không gian mênh mông, thời gian tàn tạ, khiến người đọc cảm nhận được nỗi buồn sầu dâng lớp lớp trong lòng người con gái bơ vơ, lạc lõng nơi đất khách quê người:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
Cánh buồm thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện nơi cửa bể chiều hôm gợi hành trình lưu lạc mờ mịt không biết đâu là bến bờ. Sức mạnh biểu đạt của từ láy đã được Nguyễn Du khai thác triệt để. Nó vừa gợi tả bức tranh thiên nhiên đơn điệu, buồn chán vừa ghi lại những cung bậc cảm xúc của người trước cảnh. Cảnh vật mở ra với cảnh biển chiều hôm. Cánh buồm thấp thoáng xa xa lúc ẩn, lúc hiện. Dõi theo cánh buồm trên biển xa mờ mịt, Thúy Kiều như muốn theo về với gia đình.
Con thuyền từ lâu được xem là vật kết nối giữa con người phương xa và gia đình, quê hương. Nó tựa như niềm hi vọng, niềm mong mỏi trở về đoàn tụ với cha mẹ và các em mà Thúy Kiều từng đêm mong nhớ. Nhưng càng hoài vọng càng thấy xa vời. Nguyễn Du đã khéo léo diễn tả tâm trạng chán chường, bất lực của Thúy Kiều trước nghịch cảnh.
Đến bức tranh thứ hai, Nguyễn Du dựng nên cảnh dòng nước với đóa hoa trôi. Cảnh vật được nhìn bằng ánh mắt sầu não đến ghê gớm:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Trong dòng nước mênh mang, cánh hoa trôi chao đảo, cứ dập dềnh, quẩn quanh, không biết trôi về đâu. Dòng nước ấy hay chính là dòng đời vạn biến. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi lên thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu. Số kiếp của bông hoa hay cũng chính là số kiếp của đời Kiều đấy thôi. Càng nghĩ càng thêm đáng sợ.
Lỡ sa bước vào cạm bẫy cuộc đời giả trá Kiều nào có hay. Để đến nỗi giờ đây nàng cũng không biết đời mình sẽ đi đâu về đâu. Rồi phận gái long đong, tuổi xuân cao quý cũng sẽ bị cuộc đời vùi dập tan tành mà thôi. Câu hỏi tu từ như chạm vào nơi sâu thẳm của trái tim người đọc.
Dựng nên bức tranh này, Nguyễn Du muốn nói với chúng ta rằng Kiều đang rất băn khoăn và lo lắng cho tương lai của mình. Đó là một tương lai vô định, càng nghĩ ngợi càng thấy mờ mịt. Càng nhìn xa càng thấy mịt mờ. Dưới ánh mắt của Thúy Kiều, tất cả dường như mờ ảo, tan biến, ẩn giấu biết bao hoài nghi và bí mật:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Nội cỏ “rầu rầu” nhuốm màu đau thương trải rộng nơi chân mây mặt đất gợi cuộc sống úa tàn, bi thương, vô vọng kéo dài không biết đến bao giờ. Màu cỏ héo úa như sắp tàn lụi như sắp từ biệt vũ trụ, kết thúc cuộc đời ngắn ngủi. Màu cỏ hay cũng chính là tâm hồn của Thúy Kiều đang héo úa, heo hắt, rệu rã trước cuộc đời. Tâm trạng thúy Kiều rơi vào trạng thái hoảng hốt, tâm thức bấn loạn vô cùng, nhìn đâu cũng thấy vô vọng.
Đến bức tranh cuối cùng, xuất hiện cảnh biển sóng vỗ. Những đợt sóng cuộn trào, lớp lớp như đang muốn nhấn chìm mọi thứ, dìm xuống bể sâu người con gái nhỏ bé, đáng thương:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh ầm ầm của tiếng sóng “kêu quanh ghế ngồi” gợi tâm trạng lo sợ, hãi hùng của Thúy Kiều. Nàng hoàn toàn tuyệt vọng trong cái nghịch cảnh trớ trêu của mình. Nó như báo trước những trắc trở, như vẽ ra con đường gian nan mà nàng sẽ phải đi qua. Chỉ ngay sau lúc này, giông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.
Với những nét vẽ này, Nguyễn Du khắc họa đậm nét sự hoảng loạn, mất phương hướng trong tinh thần của Kiều. Nàng hoàng toàn tuyệt vọng trước dòng đời khắc nghiệt. Nàng cầu cứu trăm phương nhưng bất lực.
Độc đáo hơn, khi những bức tranh tâm trạng được cụ Nguyễn Du sắp xếp theo trình tự tăng tiến. Từ cảm giác hoang mang trước của biển, đến suy nghĩ về tương lai vô định, nổi trôi của kiếp đời con gái. Sau đó là sự tuyệt vọng trước nghịch cảnh bế tắc, tối tăm. Cuối cùng, nàng rơi vào trạng thái hoang tưởng, tột cùng đau đớn và sợ hãi.
Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”,“rầu rầu”,”xanh xanh”,”ầm ầm”… góp phần làm nổi bật nỗi buồn nhiều bề trong tâm trạng Kiều. Tác giả lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần. Màu sắc từ nhạt đến đậm. Âm thanh từ tĩnh đến động. Nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định. Sự vật mong manh, dạt trôi. Lòng người chao đảo nghiêng đổ dữ dội.
Cuối cùng hoàn toàn rơi vào bế tắc, tuyệt vọng đến tận cùng. Lúc này, Kiều bất lực , buông xuôi trước thực tại phũ phàng. Bởi thế, nàng ngây thơ mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục sau đó.
8 câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đặc tả tâm trạng cô đơn, buồn tủi và khổ đau của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã rất thành công khi vận dụng thủ pháp miêu tả tâm lí hết sức tinh tế, chân thực và sinh động. Tâm tạng của thúy Kiều hay cũng chính là tâm trạng của tác giả trước cuộc đời đầy sóng gió phong ba. Ông có lúc cũng bế tắc, tuyệt vọng trên đường đời như chính nhân vật của ông vậy.
Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 5
Bút pháp tả cảnh ngụ tình là một trong những yếu tố làm nên thành công cho tác phẩm truyện Kiều. Tám câu cuối của đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" được coi là "đỉnh cao" trong bút pháp tả cảnh ngụ tình của đại thi hào. Qua tám câu thơ ta có thể thấy được tâm trạng đầy đau khổ của Kiều cùng nỗi nhớ quê hương, gia đình da diết và dự cảm về một tương lai không lành.
Hai câu thơ đầu tiên trong bức tranh tứ bình là cảnh cửa bể chiều hôm: "Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa". Cả một khoảng không gian chiều tà rợn ngợp, vắng lặng chỉ có một chiếc thuyền với cánh buồm "thấp thoáng". Hình ảnh đó gợi lên trong lòng Kiều một sự cô đơn lạc lõng, nàng cũng giống như cánh buồm kia lênh đênh, vô định, nhỏ bé trước dòng đời. Trong hoàn cảnh ấy, dấy lên trong lòng Kiều là nỗi nhớ quê hương da diết, nhớ gia đình, mong muốn được trở về đoàn tụ cùng cha mẹ. Ngước nhìn xa chỉ là một khoảng vô định, Kiều lại trở lại với con nước gần cạnh mình. Thế nhưng nàng chỉ thấy được hình ảnh của những cánh hoa đang rơi rụng, xoay tròn cuốn theo dòng nước "Buồn trông ngọn nước mới xa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu". Phải chăng số phận của nàng cũng giống như đoá hoa kia, lênh đênh, lạc lõng giữa dòng đời, bị nó cuốn xoay mà chẳng thể biết được bến bờ, trôi nổi trong vô định? Nhìn về phía xa, về con nước đều là những cảnh u sầu, lênh đênh, Kiều lại nhìn về những đám cỏ non ở ngay cạnh mình.
Thế nhưng đã chẳng còn hình ảnh đẹp đẽ của cỏ non những ngày thanh minh "cỏ non xanh rợn chân trời", những ngọn cỏ ở đây đều là màu vàng úa, tàn tạ, "rầu rầu". Từ láy "rầu rầu" đã gợi lên hình ảnh của một "nội cỏ" đang dần héo úa theo thời gian. Cùng với đó là một màu "xanh xanh" nhàn nhạt kéo dài, bao trùm từ mặt đất tới tận chân mây của bầu trời. Kiều nhìn ra bốn phía mong tìm được một khung cảnh giúp nàng vơi bớt nỗi sầu, buồn tủi, cô đơn nhưng nhìn đâu cũng chỉ thấy những khung cảnh tàn lụi, nhạt nhoà khiến cho tâm trạng của Kiều càng u sầu, chán nản hơn bao giờ hết. Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ là khung cảnh gió cuốn với những con sóng đang "ầm ầm" nổi lên dữ dội: "Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi". Những con sóng đó như là lời báo trước những cơn sóng gió sẽ ập đến với Kiều. Từ láy "ầm ầm" như vừa diễn tả một khung cảnh rất đỗi khủng khiếp vừa diễn tả nỗi lo lắng, bất an, hoảng loạn của Kiều. Đó là dự cảm của nàng về tương lai số phận của chính mình khi những giông bão sẽ nổi lên "vây quanh" lấy kiếp hồng nhan.
Tám câu cuối của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã cho ta thấy được tâm trạng buồn chán, nỗi lo lắng, bất an cùng dự cảm không lành của nàng Kiều khi bị Tú Bà giam lỏng giữa lầu Ngưng Bích. Về mặt nghệ thuật, đoạn thơ đã rất thành công trong bút pháp tả cảnh ngụ tình, mượn hình ảnh thiên nhiên để miêu tả chính xác tâm trạng của con người. Cùng với đó là điệp từ "buồn trông" như một lời điệp khúc gợi lên tâm trạng buồn bã đang dâng lên tầng tầng lớp lớp trong lòng Kiều. Tám câu cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn thơ thành công nhất cũng như khẳng định được tài năng tài hoa trong bút pháp tả cảnh ngụ tình của nhà thơ Nguyễn Du.