Văn mẫu lớp 8: Suy nghĩ của em về hình ảnh hai cây phong trong tác phẩm Người thầy đầu tiên Dàn ý & 4 bài văn mẫu lớp 8 hay nhất

Văn mẫu lớp 8: Suy nghĩ của em về hình ảnh hai cây phong trong tác phẩm Người thầy đầu tiên của Ai-ma-tốp gồm dàn ý, cùng 4 bài văn mẫu. Giúp các em học sinh lớp 8 tham khảo, tích lũy vốn từ để hoàn thiện bài văn của mình.

Thông qua đó, các em cũng sẽ cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm, thêm nhiều ý tưởng mới khi viết văn. Mời các em cùng theo dõi nội dung chi tiết trong bài viết dưới đây:

Dàn ý suy nghĩ về hình ảnh hai cây phong

1. Mở bài

- Khái quát về Ai-ma-top: Ông là nhà văn Cư- rơ-gư-xtan. Ông viết nhiều về vùng đồi núi quê hương mình.

- Văn bản Hai cây phong là phần đầu của truyện Người thầy đầu tiên, đây là đoạn trích ca ngợi tình cảm thiêng liêng, đó là tình yêu quê hương xứ sở, đồng thời là bài ca về người thầy chân chính.

- Dẫn dắt tới hình ảnh hai cây phong.

2. Thân bài: Phân tích hình ảnh hai cây phong

- Hai cây phong nằm ở trên đồi như ngọn hải đăng trên núi.

- Ai đến làng cũng đều thấy chúng trước tiên ⇒ Là dấu hiệu để nhận ra làng.

⇒ Phép so sánh chỉ giá trị tín nhiệm của hai cây phong. Khẳng định giá trị không thể thiếu đối với những người đi xa, thể hiện niềm tự hào về hai cây phong.

- Hai cây phong ấy cũng có tiếng nói riêng, tâm hồn riêng: tiếng rì rào nhiều cung bậc khác nhau.

- Hai cây phong gắn bó với sự sống, với con người: nơi giúp bọn trẻ thấy một “thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”, nhìn ra vẻ đẹp mới và khơi gợi khát vọng khám phá miền đất lạ.

- Hai cây phong là nhân chứng cho hành động và tình cảm của thầy Đuy-sen.

- Cảnh trèo lên hai cây phong cho ta thấy đây là nơi hội tụ niềm vui, mở rộng chân trời hiểu biết, nơi khắc ghi những biến cố của làng.

⇒ Hình ảnh hai cây phong được xem là dấu ấn của làng đã in sâu vào trong trái tim, khối óc và trở thành một phần máu thịt của người đi xa.

3. Kết bài

- Khái quát giá trị nghệ thuật làm nên thành công của đoạn trích: Cách lựa chọn ngôi kể tạo nên hai mạch kể lồng ghép độc đáo, sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm với ngòi bút đậm chất hội họa, truyền sự rung cảm đến người đọc, những liên tưởng tác bạo đầy chất thơ.

- Hai cây phong là biểu tượng của tình yêu quê hương sâu nặng gắn liền với những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ của người họa sĩ làng Ku- ku-rêu.

Suy nghĩ của em về hình ảnh hai cây phong - Mẫu 1

Ai-ma-tốp là một trong những nhà văn Nga nổi tiếng. Các sáng tác của ông đã vẽ lên hình ảnh một đất nước Nga trữ tình, xinh đẹp, thơ mộng với những con người giàu tình cảm. Nhiều sáng tác của ông được đánh giá cao. Tác phẩm đầu tiên của Ai-ma-tốp là truyện vừa Gia-mi-li-ơ được A-ra-công – nhà văn Pháp xem là “bản tình ca hay nhất thế kỉ XX”. Truyện ngắn Người thầy đầu tiên nằm trong tập truyện Giamilia – truyện núi đồi và thảo nguyên được coi là một trong những tác phẩm gây nhiều xúc động nhất. Bên cạnh hình ảnh An-tư-nai, cô học trò nghèo khổ nhưng nghị lực và thành đạt, bên cạnh hình ảnh thầy Đuy-sen – người thầy giáo đầu tiên đem ánh sáng văn hoá khai sinh cho lũ trẻ làng Ku-ku-rêu, chúng ta không thể quên được hình ảnh hai cây phong – một hình ảnh sinh động, giàu ý nghĩa biểu trưng trong truyện ngắn nổi tiếng này.

Đoạn trích Hai cây phong mở đầu truyện vừa Người thầy đầu tiên như một khúc dạo đầu cho một bài ca dài về tình yêu quê hương và con người, là nỗi buồn nhớ khôn nguôi về quê hương của những người con xa cách. Trong đoạn trích này, hình ảnh hai cây phong là hình ảnh trung tâm, được vẽ lên bằng tình cảm của nhân vật xưng “tôi” cùng với những kỉ niệm với chúng bạn suốt một thời thơ ấu.

Mở đầu đoạn trích, hai cây phong hiện lên sau những dòng văn tác giả dành để giới thiệu vẻ ngôi làng Ku-ku-rêu thân yêu của mình. Không nhiều, chỉ với bốn, năm câu văn ngắn gọn nhưng hình ảnh ngôi làng nhỏ nhắn, xinh xắn nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng,… hiện lên khá rõ nét. Rồi dường như, tâm trí của nhân vật xưng “tôi” bị chi phối hoàn toàn bởi một hình ảnh quen thuộc của ngôi làng – hình ảnh hai cây phong. Tác giả giới thiệu vị trí của nó : “Phía trên làng tôi, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lớn”. Hai cây phong gắn bó với nhân vật xưng “tôi” từ khi nhân vật có ý thức về sự có mặt của mình trên đời. Nhưng điều đặc biệt là hai cây phong đó không chỉ là kỉ niệm, là niềm vui của riêng tác giả mà dường như nó là bạn, là vật sở hữu của tất cả mọi người. Hai cây phong gắn với ngôi làng Ku-ku-rêu như máu thịt : “Dù ai đi từ phía nào đến làng Ku-ku-rêu chúng tôi cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên, chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi”. Hình ảnh hai cây phong lúc này như một báo hiệu bạn đã đến Ku-ku-rêu, như một lời chào thân thiết của ngôi làng nhỏ bé ấy với các vị khách qua làng. Chính sự hiện diện ấy làm cho con người ta rơi vào một thói quen “đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”. Sự ngự trị trong trái tim nhân vật xưng “tôi” của hai cây phong là cố hữu. Đến nỗi, nhân vật xưng “tôi” nhìn thấy hai cây phong trong cảm nhận và tưởng tượng. Mỗi lần về quê, nhân vật không thể không nhanh chóng đến với hai cây phong, để say sưa nhìn ngắm cho tới ngây ngất. Trong cảm nhận của nhân vật, hai cây phong của làng Ku-ku-rêu có những điều khác hẳn với các loài cây khác : “chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”. Bằng tình cảm thắm thiết với hai cây phong, nhân vật xưng “tôi” nhận ra được cái tiếng nói riêng ấy và cảm nhận được những cung bậc tình cảm của chúng : “Dù ta tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau”. Một loạt những hình ảnh miêu tả sắc nét làm cho hai cây phong càng gây ấn tượng sâu sắc. Tiếp đó, nhân vật xưng “tôi” sử dụng một loạt những so sánh đặc sắc : “tưởng chừng như một làn sóng thuỷ triều”, “như tiếng thì thầm tha thiết”, “như một đốm lửa vô hình”, “cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”, “reo vù vù như một ngọn lửa cháy rừng rực”. Những hình ảnh so sánh đậm tính chất tạo hình khiến hai cây phong như đang hiển hiện rõ rệt trước mắt người đọc. Trong tất cả những so sánh mà nhà văn sử dụng, ta đều cảm thấy đây không phải là hai cây phong bình thường mà là hai cây phong mang trong mình những tình cảm rất con người. Những biểu hiện của chúng như là những biểu hiện khác nhau của tâm trạng con người. Những cụm từ so sánh ấy làm hai cây phong hiện lên lúc dịu dàng, trầm lắng, lúc mạnh mẽ, đủ đầy những cung bậc tình cảm rất con người. Trong hình dung của nhân vật xưng “tôi”, hai cây phong như hai anh em sinh đôi, hai con người với sức lực dẻo dai, dũng mãnh, với tâm hồn phong phú và có cuộc sống riêng của mình. Chính điều đó đã để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn nhân vật cũng như người đọc.

Ấn tượng về hai cây phong không thể phai mờ trong tâm trí nhân vật xưng “tôi”. Sau này, khi nhiều năm đã trôi qua “tôi mới hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong. Chẳng qua chúng đứng trên đồi cao lộng gió nên đáp lại bất kì chuyển động khe khẽ nào của không khí, mỗi chiếc lá nhỏ đều nhạy bén đón lấy mọi làn gió nhẹ thoảng qua”. Nhưng tất cả những sự thật ấy, “cái chân lí giản đơn ấy” không làm tình cảm, những cảm nhận của nhân vật xưng “tôi” về hai cây phong thay đổi. Nhân vật “tôi” là một hoạ sĩ, một nghệ sĩ, người có tâm hồn phong phú và giàu cảm xúc. Khi đã hiểu ra tất cả nhưng trong anh vẫn không tan đi giấc mộng kì diệu của tuổi thơ. Ngược lại, những kỉ niệm và kí ức huyền ảo về hai cây phong vẫn luôn ám ảnh tâm trí anh mỗi khi nhớ về, theo anh suốt những năm tháng của cuộc đời. Với anh, sự kì diệu của hai cây phong là bất diệt và chúng gắn bó máu thịt với anh “Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh…

Dường như trên con đường trở về làng Ku-ku-rêu thân yêu của mình, tâm trí của người hoạ sĩ cứ dần chìm sâu vào kỉ niệm êm đềm về hai cây phong. Những kỉ niệm của thời thơ ấu với chúng bạn như được đánh thức. Tác giả vừa nhớ lại vừa kể, tả một cách rất cụ thể thấm đượm cảm xúc mến thương ngọt ngào. “Cứ mỗi lần chúng tôi reo hò, huýt còi ầm T chạy lên đồi là hai cây phong khổng lồ lại nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền”. Dường như ở đây có một mối giao cảm kì lạ và thiêng liêng. Hai cây phong như rất vui mừng chơi đùa với lũ trẻ. Trong những trò chơi đó, chúng cũng là những người bạn thân thiết và dịu hiền, che chở cho lũ trẻ. Hai cây phong như những người bạn lớn vô cùng thân thiết, bao dung, độ lượng và gắn bó với lũ trẻ trong làng. Còn lũ trẻ thì như những chú chim non ngây thơ, nghịch ngợm và ngộ nghĩnh, chơi đùa không biết mệt, không biết chán dưới gốc và trên hai cây phong đã thành cổ thụ.

Hai cây phong quan trọng với lũ trẻ, với nhân vật xưng “tôi” không chỉ bởi chúng là người bạn cùng tham gia vào những trò chơi thú vị với bọn trẻ, mà dường như điều quan trọng hơn là chính hai cây phong đã mang lại cho chúng một thế giới khác, mở rộng tầm mắt chúng với những chân trời bao la. Từ trên cao ngất, phép thần thông mở ra trước mắt lũ trẻ những điều kì thú, “cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”. Đó là một thế giới vừa quen vừa lạ mà nếu đứng dưới gốc cây phong hay trên cánh thảo nguyên, chúng cũng không thể nào thấy được. Cảm giác choáng ngợp làm chúng sửng sốt, nín thở, quên đi cả việc làm chúng thích thú bậc nhất là bắt tổ chim. Tiếp theo là chuồng ngựa nông trang bây giờ bỗng nhỏ lại, thảo nguyên hoang vu mất hút trong sương mờ, dòng sông lấp lánh như một sợi chỉ bạc chạy tới chân trời… ở trên không, chúng mới cảm nhận được sự mênh mông, không cùng, quyến rũ và đầy bí ẩn của đất đai, bầu trời cảnh vật của quê hương đất nước. Hai cây phong đã thức dậy trong chúng những suy nghĩ mà có lẽ trước đó lũ trẻ tinh nghịch này chưa bao giờ nghĩ tới : “Đã phải đấy là nơi tận cùng thế giới chưa, hay phía sau vẫn còn có bầu trời như thế này, những đám mây, những đồng cỏ và sông ngòi như thế này ?”. Đó là những suy nghĩ sẽ là bệ đỡ, bệ phóng cho những ước mơ và khát vọng lần đầu thức tỉnh trong tâm hồn những đứa trẻ làng Ku-ku-rêu. Khát vọng đã vượt qua khỏi ngôi làng nhỏ bé, đến với những miền đất xa xôi của Tổ quốc. Chính hai cây phong đã đem chúng đến với thế giới mở đầy thú vị ấy.

Hai cây phong sở dĩ trở nên đặc biệt, ngoài những lí do trên chủ yếu nó còn gắn với một người – nhân vật chính của câu chuyện – thầy giáo trường làng Đuy-sen – người thầy giáo đầu tiên có công xây dựng ngôi trường đầu tiên, xoá mù chữ cho lũ trẻ trong làng. Chính thầy đã đem hai cây phong về,’cùng với cô học trò nghèo khổ An-tư-nai trồng chúng. Hai cây phong chính là nhân chứng của câu chuyện xúc động về tình cảm của thầy trò An-tư-nai. Thầy Đuy-sen trồng hai cây phong để gửi gắm ước mơ, hi vọng những đứa trẻ nghèo khổ, thông minh, ham học như An-tư-nai sau này sẽ lớn lên, trưởng thành và bay xa, trở thành những người có ích. Hai cây phong được gửi gắm biết bao ước mơ và hi vọng về một thế hệ trẻ, thế hệ mới sẽ làm đổi thay cho làng Ku-ku-rêu.

Với một tâm hồn giàu xúc cảm, với con mắt tinh tế của một hoạ sĩ, hai cây phong được khắc họa đậm nét và giàu chất tạo hình. Với cách kể chuyện đan xen, lồng ghép hai thời điểm, hiện tại – quá khứ, trưởng thành – niên thiếu câu chuyện trở nên sống động, thân mật, gần gũi, ấm áp và chân thật hơn đối với người đọc. Hai cây phong là góc trời của tuổi thơ, nuôi dưỡng tâm hồn nhân vật xưng “tôi” dù sau này anh không còn ở làng Ku-ku-rêu nữa. Chúng cũng chính là tiếng mời gọi thân thiết những đứa con xa quê trở về với ngôi làng nhỏ bé. Hai cây phong nhắc chúng ta đừng quên quá khứ tuổi thơ, đừng bao giờ quên công ơn và tình cảm của người thầy giáo đầu tiên của cuộc đời mình.

Suy nghĩ của em về hình ảnh hai cây phong - Mẫu 2

Có ai đó từng nói, quê hương là một điều kì lạ, luôn khiến chúng ta hạnh phúc và cả đớn đau nhất trong những chặng hành trình của đời người. Khi nghĩ về quê hương, trong lòng mỗi người con xa xứ luôn dấy lên những cảm giác bồi hồi, thổn thức bởi những hình ảnh gắn bó, in đậm trong kí ức bấy lâu. Một giếng nước, một bờ đê hay một góc ao đình. Với nhân vật trong tác phẩm Người thầy đầu tiên, nhớ về làng Ku-ku-rêu là “tôi” nhớ về hình ảnh đẹp đẽ: Hai cây phong - một hình ảnh sinh động, giàu ý nghĩa biểu trưng và in dấu những kí ức tuổi thơ mát lành.

Đoạn trích Hai cây phong mở đầu truyện vừa Người thầy đầu tiên như một khúc dạo đầu cho một bài ca dài về tình yêu quê hương và con người, là nỗi buồn nhớ khôn nguôi về quê hương của những người con xa cách. Trong đoạn trích này, hình ảnh hai cây phong là hình ảnh trung tâm, được vẽ lên bằng tình cảm của nhân vật xưng “tôi” cùng với những kỉ niệm với chúng bạn suốt một thời thơ ấu.

Với giọng kể thủ thỉ, tâm tình, ta phần nào cảm nhận được sự trân trọng của nhân vật “tôi” dành cho hai cây phong và ngôi làng yêu dấu của anh: “Tôi cùng không biết phải giải thích ra sao – phải chăng người ta vẫn đặc biệt trân trọng, nâng niu những ấn tượng thời thơ ấu… nhưng cứ mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa, đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt nhìn hai cây phong thân thuộc ấy”. Hai cây phong gắn bó với nhân vật xưng “tôi” từ khi nhân vật có ý thức về sự có mặt của mình trên đời. Nhưng điều đặc biệt là hai cây phong đó không chỉ là kỉ niệm, là niềm vui của riêng tác giả mà dường như nó là bạn, là vật sở hữu của tất cả mọi người. Hai cây phong gắn với ngôi làng Ku-ku-rêu như máu thịt: “Dù ai đi từ phía nào đến làng Ku-ku-rêu chúng tôi cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên, chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi”. Sự ngự trị trong trái tim nhân vật xưng “tôi” của hai cây phong là cố hữu. Trong cảm nhận của nhân vật, hai cây phong của làng Ku-ku-rêu như có cả tâm hồn bao la: “chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”. Bằng tình cảm thắm thiết với hai cây phong, nhân vật xưng “tôi” nhận ra được cái tiếng nói riêng ấy và cảm nhận được những cung bậc tình cảm của chúng: “Dù ta tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau”. Một loạt những hình ảnh miêu tả sắc nét làm cho hai cây phong càng gây ấn tượng sâu sắc. Tiếp đó, nhân vật xưng “tôi” sử dụng một loạt những so sánh đặc sắc: “tưởng chừng như một làn sóng thuỷ triều”, “như tiếng thì thầm tha thiết”, “như một đốm lửa vô hình”, “cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”, “reo vù vù như một ngọn lửa cháy rừng rực”. Những hình ảnh so sánh đậm tính chất tạo hình khiến hai cây phong như đang hiển hiện rõ rệt trước mắt người đọc. Trong tất cả những so sánh mà nhà văn sử dụng, ta đều cảm thấy đây không phải là hai cây phong bình thường mà là hai cây phong mang trong mình những tình cảm rất con người. Những biểu hiện của chúng như là những biểu hiện khác nhau của tâm trạng con người. Những cụm từ so sánh ấy làm hai cây phong hiện lên lúc dịu dàng, trầm lắng, lúc mạnh mẽ, đủ đầy những cung bậc tình cảm rất con người. Trong hình dung của nhân vật xưng “tôi”, hai cây phong như hai anh em sinh đôi, hai con người với sức lực dẻo dai, dũng mãnh, với tâm hồn phong phú và có cuộc sống riêng của mình. Chính điều đó đã để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn nhân vật cũng như người đọc.

Ấn tượng về hai cây phong không thể phai mờ trong tâm trí nhân vật xưng “tôi”. Sau này, khi nhiều năm đã trôi qua “tôi mới hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong. Chẳng qua chúng đứng trên đồi cao lộng gió nên đáp lại bất kì chuyển động khe khẽ nào của không khí, mỗi chiếc lá nhỏ đều nhạy bén đón lấy mọi làn gió nhẹ thoảng qua”. Nhưng tất cả những sự thật ấy, “cái chân lí giản đơn ấy” không làm tình cảm, những cảm nhận của nhân vật xưng “tôi” về hai cây phong thay đổi. Nhân vật “tôi” là một hoạ sĩ, một nghệ sĩ, người có tâm hồn phong phú và giàu cảm xúc. Khi đã hiểu ra tất cả nhưng trong lòng vẫn không tan đi giấc mộng kì diệu của tuổi thơ. Ngược lại, những kỉ niệm và kí ức huyền ảo về hai cây phong vẫn luôn ám ảnh tâm trí anh mỗi khi nhớ về, theo anh suốt những năm tháng của cuộc đời. Với anh, sự kì diệu của hai cây phong là bất diệt và chúng gắn bó máu thịt với anh “Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh…”

Dường như trên con đường trở về làng Ku-ku-rêu thân yêu của mình, tâm trí của người hoạ sĩ cứ dần chìm sâu vào kỉ niệm êm đềm về hai cây phong. Những kỉ niệm của thời thơ ấu với chúng bạn như được đánh thức. Tác giả vừa nhớ lại vừa kể, tả một cách rất cụ thể thấm đượm cảm xúc mến thương ngọt ngào. “Cứ mỗi lần chúng tôi reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên đồi là hai cây phong khổng lồ lại nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền”. Dường như ở đây có một mối giao cảm kì lạ và thiêng liêng. Hai cây phong như rất vui mừng chơi đùa với lũ trẻ. Trong những trò chơi đó, chúng cũng là những người bạn thân thiết và dịu hiền, che chở cho lũ trẻ.

Hai cây phong như những người bạn lớn vô cùng thân thiết, bao dung, độ lượng và gắn bó với lũ trẻ trong làng. Còn lũ trẻ thì như những chú chim non ngây thơ, nghịch ngợm và ngộ nghĩnh, chơi đùa không biết mệt, không biết chán dưới gốc và trên hai cây phong đã thành cổ thụ.

Hai cây phong quan trọng với lũ trẻ, với nhân vật xưng “tôi” không chỉ bởi chúng là người bạn cùng tham gia vào những trò chơi thú vị với bọn trẻ, mà dường như điều quan trọng hơn là chính hai cây phong đã mang lại cho chúng một thế giới khác, mở rộng tầm mắt chúng với những chân trời bao la. Từ trên cao ngất, phép thần thông mở ra trước mắt lũ trẻ những điều kì thú, “cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”. Đó là một thế giới vừa quen vừa lạ mà nếu đứng dưới gốc cây phong hay trên cánh thảo nguyên, chúng cũng không thể nào thấy được. Cảm giác choáng ngợp làm chúng sửng sốt, nín thở, quên đi cả việc làm chúng thích thú bậc nhất là bắt tổ chim. Tiếp theo là chuồng ngựa nông trang bây giờ bỗng nhỏ lại, thảo nguyên hoang vu mất hút trong sương mờ, dòng sông lấp lánh như một sợi chỉ bạc chạy tới chân trời… ở trên không, chúng mới cảm nhận được sự mênh mông, không cùng, quyến rũ và đầy bí ẩn của đất đai, bầu trời cảnh vật của quê hương đất nước. Hai cây phong đã thức dậy trong chúng những suy nghĩ mà có lẽ trước đó lũ trẻ tinh nghịch này chưa bao giờ nghĩ tới: “Đã phải đấy là nơi tận cùng thế giới chưa, hay phía sau vẫn còn có bầu trời như thế này, những đám mây, những đồng cỏ và sông ngòi như thế này?”. Đó là những suy nghĩ sẽ là bệ đỡ, bệ phóng cho những ước mơ vầ khát vọng lần đầu thức tỉnh trong tâm hồn những đứa trẻ làng Kukurêu. Khát vọng đã vượt qua khỏi ngôi làng nhỏ bé, đến với những miền đất xa xôi của Tổ quốc. Chính hai cây phong đã đem chúng đến với thế giới mở đầy thú vị ấy.

Hai cây phong sở dĩ trở nên đặc biệt, ngoài những lí do trên chủ yếu nó còn gắn với một người – nhân vật chính của câu chuyện – thầy giáo trường làng Đuy-sen – người thầy giáo đầu tiên có công xây dựng ngôi trường đầu tiên, xoá mù chữ cho lũ trẻ trong làng. Chính thầy đã đem hai cây phong về,’cùng với cô học trò nghèo khổ An-tư-nai trồng chúng.

Hai cây phong chính là nhân chứng của câu chuyện xúc động về tình cảm của thầy trò An-tư-nai. Thầy Đuy-sen trồng hai cây phong để gửi gắm ước mơ, hi vọng những đứa trẻ nghèo khổ, thông minh, ham học như An-tư-nai sau này sẽ lớn lên, trưởng thành và bay xa, trở thành những người có ích. Hai cây phong được gửi gắm biết bao ước mơ và hi vọng về một thế hệ trẻ, thế hệ mới sẽ làm đổi thay cho làng Ku-ku-rêu. Hai cây phong chính là hiện thân xúc động cho khoảng trời ấu thơ nghĩa tình, là nơi lưu giữ những kỉ niệm của bao thế hệ học trò làng Ku-ku-rêu bé nhỏ. Từ câu chuyện về hình ảnh hai cây phong, Ai-ma-tốp gợi lên trong lòng người đọc về suối nguồn của tình yêu với quê hương, đất nước thật giản dị, sâu sắc mà cảm động biết bao.

Suy nghĩ của em về hình ảnh hai cây phong - Mẫu 3

Hình ảnh hai cây phong ở làng Ku-ku-rêu
Hình ảnh hai cây phong ở làng Ku-ku-rêu

Với mỗi chúng ta, ai cũng có những kỷ niệm về miền quê yêu dấu, khi nhớ về quê hương, lòng ta lại bồi hồi xao xuyến thức cùng những hình ảnh thân thuộc, gắn bó in đậm trong ký ức bấy lâu, một giếng nước, một hàng cây hay một góc ao đình. Với nhân vật An-tư-nai trong tác phẩm “Người thầy đầu tiên”, nhớ về làng Ku-ku-rêu là cô nhớ về hình ảnh đẹp đẽ: Hai cây phong. Hai cây phong mang đầy ý nghĩa biểu tượng.

Chưa cần xem nội dung lời tả và giới thiệu, chỉ cần nghe giọng kể của An-tư-nai (cô viện sĩ đã trưởng thành ở Matxcơva) ta đã có thể hiểu được tình cảm trân trọng và yêu quý hai cây phong cũng như cái làng Ku-ku-rêu cổ xưa của cô biết nhường nào. Hai cây phong trở thành linh hồn của làng quê, là biểu tượng của quê hương trong cô mà cô lưu giữ bao kỷ niệm tuổi ấu thơ. Điều ấy đã được cô bộc bạch trong tác phẩm “ Tôi cũng không biết giải thích ra sao, – phải chăng người ta vẫn đặc biệt trân trọng, nâng niu những ấn tượng thời thơ ấu – nhưng cứ mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa, đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”.

Dù chưa hiểu nguồn gốc gắn bó của nhân vật với hai cây phong nhưng qua lời giới thiệu của An-tư-nai ta cảm nhận sự đồng cảm của nhân vật với hai cây phong thật sâu sắc. Dường như mọi chuyển động của hai cây thực vật này đều được người kể hiểu thấu bằng một trái tim đồng điệu: “Hai cây phong này khác hẳn – chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”. Người phụ nữ ấy nghe lá cây lay động mà nghe như “một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyền qua lá cành như một đốm lửa vô hình”, lúc lại cảm nhận nó “khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”. Cảm xúc tinh tế đầy chất thơ ấy là của một tâm hồn giàu chất thơ, một trái tim giàu tình yêu và trí tưởng tượng phong phú.

Sở dĩ hai cây phong đi vào ký ức của nhân vật bởi nó gắn liền với những kỷ niệm tuổi thơ cay đắng và tình yêu thương ấm áp của người thầy truyền cho cô, một tình yêu thương nhân ái vô bờ. Chính vì vậy nhân vật đã tự bộc lộ và cho đến tận nay tôi vẫn thấy hai cây phong trên đồi có một vẻ sinh động khác thường. Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh

Hai cây phong nơi ấy chứa bao kỷ niệm của tuổi học trò với những trò chơi thuở nhỏ “Khi bắt đầu nghỉ hè, bọn con trai chạy ào lên đấy phá tổ chim”. Song ấn tượng sâu đậm trở thành điểm nhớ về hai cây phong trong ký ức của nhân vật ở đây chính là “thế giới diệu kỳ được mở ra trong tâm hồn trẻ thơ” từ góc nhìn, tầm nhìn mà hai cây phong ấy đem lại.

Trước hết là hai cây phong là điểm tựa để bọn trẻ đua nhau thể hiện ý chí: “Chúng tôi cứ leo lên cao nữa – nào xem ai can đảm và khéo léo hơn ai!”. Nhưng thế giới xung quanh mới là điều kinh ngạc và quyến rũ bọn trẻ Chúng tôi cố giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa thẳm biêng biếc của thảo nguyên và nhìn thấy không biết bao nhiêu, bao nhiêu là vùng đất mà trước đây chúng tôi chưa từng biết đến, thấy những con sông mà trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói. Những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng manh. Chúng tôi ngồi nép trên các cành cây, lắng nghe tiếng gió ảo huyền, và tiếng lá cây đáp lại lời gió, thì thầm to nhỏ về những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm và biêng biếc kia”.

Càng đọc ta càng cảm nhận được chất hoạ sĩ ở người kể chuyện, càng cảm nhận được thế giới “bí ẩn đầy sức quyến rũ” của những miền đất lạ đã thu hút tâm hồn trẻ thơ, đọng lại một khoảng sáng trong tâm hồn cô bé An-tư-nai để khi trưởng thành nỗi nhớ về ký ức tuổi thơ và hình ảnh hai cây phong lại rực lên những hình ảnh lung linh kỳ thú thuở nào để rồi xa quê lâu ngày lòng cô lại thao thức. Và trong cõi sâu thẳm ta hiểu rằng nỗi nhớ và cảm xúc cùng thế giới tuổi thơ vẫn đọng lại nguyên vẹn trong hai cây phong ấy chính là tình yêu quê hương da diết.

Nhưng nguyên nhân sâu xa là ở chỗ hai cây phong là nhân chứng của câu chuyện hết sức xúc động về Đuy-sen, người thầy đầu tiên và cô bé An- tư-nai gần bốn mươi năm về trước. Chính thầy Đuy-sen đã đem hai cây phong về trồng trên đồi cao này cùng với cô bé An-tư-nai và thầy đã gửi gắm ở hai cây phong non ước mơ, hy vọng những đứa trẻ nghèo khổ, thất học như An-tư-nai sau này sẽ lớn lên, ngày càng được mở mang kiến thức và trở thành những con người hữu ích.

Hai cây phong chắt chiu nhựa đất cằn trên đồi cao lớn lên và lưu giữ kỷ niệm của bao thế hệ học trò làng Ku-ku-rêu bé nhỏ. Từ câu chuyện về hình ảnh hai cây phong, Ai-ma-tốp gợi lên trong lòng người đọc về cuộc sống tình yêu với quê hương đất nước trong mỗi người – nơi cội nguồn của mỗi cuộc đời – thật giản dị, sâu sắc mà cảm động bởi hình ảnh quê hương được gửi gắm qua hình tượng hai cây phong in đậm trong tâm trí người kể chuyện y nguyên chẳng phai mờ.

Suy nghĩ của em về hình ảnh hai cây phong - Mẫu 4

Truyện Người thầy đầu tiên của nhà văn Ai-ma-tốp đã đưa chúng ta về với làng nhỏ Ku-ku-rêu của nước cộng hòa Kư-rơ-gư-xtan thuộc Liên-Xô (cũ). Câu chuyện về người chiến sĩ Hồng quân, đoàn viên thanh niên cộng sản Đuy-sen – người thầy đầu tiên đã trồng hai cây phong nhỏ cùng cô bé An-tư-nai thuở trước. Đổ bốn chục năm sau, cô bé đà là một viện sĩ danh tiếng, còn Hai cây phong đà trở thành một phần không thể thiếu trong ký ức làng quê của biết bao thế hệ dân làng Ku-ku-rêu. Hai cây phong là hình ảnh thân thuộc của quê hương đã được cảm nhận bằng tất cả rung động trong trẻo nhất của tuổi thơ.

Kỷ niệm gắn bó với hai cây phong được kể lại theo hai mạch dẫn lồng vào nhau: mạch dẫn chuyện trực tiếp của nhân vật “tôi” – một họa sĩ đà lớn lên từ chính mảnh đất này và mạch kỷ niệm của cả một thế hệ “chúng tôi”. Ký ức thật đậm nét của tuổi thơ đã khiến cho người họa sĩ – nhân vật “tôi” đã tái hiện lại thật đẹp và xúc động hình ảnh hai cây phong – biểu tượng của quê hương, một mảnh hồn làng sống động.

Bắt đầu của những ký ức về làng quê là lời dẫn chuyện đưa người đọc trở về một nơi nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng, có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống. Ku-ku-rêu đã hiện ra với tất cả vẻ hoang sơ của thiên nhiên với thung lùng, thảo nguyên,rừng núi hai cây phong không phải là món quà của tự nhiên nhưng đã từ rất lâu, những đứa trẻ đã biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình.

Rất tự nhiên, hình ảnh hai cây phong đã trở thành của riêng làng Ku-ku-rêu: “chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi”, trở thành mốc định hướng cho mọi người tìm đến. Riêng đối với nhân vật “tôi”, “mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, “tôi” đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy. Anh đã dành tình cảm đặc biệt với hai cây phong như với những người bạn, nhìn bằng cặp mắt chan chứa tình cảm yêu thương, nên dù khó nhìn đến mấy, anh bảo dù ở đâu cũng nhận biết được chúng, lúc nào cũng nhìn rõ chúng . Hai cây phong đã trở thành một phần tâm hồn cửa anh, chi phối cả niềm vui, nỗi buồn của người họa sĩ.

Bằng tình yêu ấy, nhân vật “tôi” đã tạo nên một bức tranh thật sinh động, đẹp đẽ. Một bức tranh ngân nga cả những giai điệu “tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Đoạn văn miêu tả hình ảnh hai cây phong đẹp như một bài thơ về một loài cây “có tiếng nói riêng và phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu ”.

Có lẽ chính tình yêu quê hương của người hoạ sĩ đã đem đến cảm giác choáng ngợp say sưa ấy: “Dù ta tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngủ thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau. Có khi tưởng chừng như một làn sóng thủy triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyển qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoáng.

Ngay cả khi thời tiết thay đổi khắc nghiệt, hai cây phong ấy vẫn như một con người bền bỉ, kiên cường đối chọi với sức mạnh tàn phá của bão dông: “nghiêng ngả tấm thân dẻo dai vù reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực. Cảm nhận của tuổi thơ đã được người họa sĩ ấy trân trọng gìn giữ, ngay cả khi khám phá ra điều bí ẩn về hai cây phong bằng những giải thích chính xác khoa học thì “việc khám phá ra chân lí giản đơn ấy vẫn không làm tôi vơi mộng xưa, không lùm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi thơ mà tôi còn giữ đến tận ngày nay”. Bởi lẽ cây phong ấy đã gắn với cả một thời tươi đẹp: “Tuổi, trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mãnh vỡ của chiếc gương thần xanh”

Hình ảnh thời ấu thơ đã tạo thành không gian cổ tích rất riêng, phải chăng chính từ tình yêu và sự gắn bó với hai cây phong, đã làm cậu bé năm xưa lớn lên trở thành họa sĩ với mong muốn vẽ lại linh hồn nồng thắm của làng quê?

Hai cây phong ấy còn là kỷ niệm chung của chúng tôi – bọn con trai tinh nghịch ở làng Ku-ku-rêu, những người bạn cùng trang lứa của người họa sĩ. Đó là tất cả những ngày tháng được vui chơi, chạy nhảy giữa núi đồi rộng lớn, trong bóng râm mát rượi vì tiếng lá xào xạc dịu hiền của hai cây phong. Đẹp làm sao khoảnh khắc những cậu bé ấy được nâng lên cao từ những cành cao ngất, cao đến ngang tầm chim bay, một thế giới khác đã được mở ra, vượt ra khỏi giới hạn của làng quê Ku-ku-rêu nhỏ bé, “như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi có một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian hao la và ánh sáng”.

Hai cây phong trở thành bệ đỡ nâng cánh ước mơ cho những đứa trỏ, mở tầm nhận thức về một thế giới đầy những điều mới lạ cần khám phá, hướng về “những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ được giấu kín sau chân trời xa thâm biêng biếc kia”. Cũng như bạn bò của mình, “tôi” – chú bé sau này là họa sĩ cũng trải qua cảm giác “tim đập rộn ràng vì thoảng thốt và vui sướng, rồi trong tiếng xào xạc không ngớt ấy, tôi cố hình dung ra những miền xa lạ kia”. Hai cây phong đã trở thành người bạn lớn, người bạn tâm tình thân thiết đem lại những niềm vui vỡ òa hạnh phúc cho tuổi thơ.

Bên cạnh bức tranh bằng ngôn từ là một bản giao hưởng của âm thanh với đủ cung bậc buồn vui. Người viết đã phát huy cao độ trí tưởng tượng bay bổng và cảm xúc say mê nồng nhiệt của mình vào việc thể hiện vẻ đẹp lạ thường của hai cây phong. Có khi chúng thì thầm thiết tha nồng nàn, có khi chúng bỗng im bặt một thoáng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào. Được nhân cách hóa cao độ nên hai cây phong có tiếng nói và tâm hồn đa dạng, phong phú, cuốn hút lòng người.

Khi hưởng thụ niềm vui trong bao tháng ngày hồn nhiên thơ mộng bên hai cây phong ấy, không cậu bé nào đặt câu hỏi về người đã vun mầm, ấp ủ những niềm hi vọng, đem lại hạnh phúc tuổi thơ. Đó cũng là điều bình thường với bất cứ em bé nào. Hai cây phong của người chiến sĩ Hồng quân, đoàn viên thanh niên cộng sản Đuy-sen đã cùng trồng với em bé khốn khổ An-tư-nai trong những ngày làng Ku-ku-rêu còn chìm đắm trong lạc hậu lôi tăm và những hủ tục còn đè nặng trong đời sống dân làng những năm đầu sau cách mạng tháng Mười đã trở thành nhân chứng cho sự lớn khôn của bao thế hệ.

Bản thân ngươi thầy đầu tiên ấy vẫn ở lại với làng, đã trở thành một ông lão đưa thư mẫn cán Đuy-sen. Thế nhưng, khi các em bé gọi quả đồi có hai cây phong là “Trường Đuy-sen” như bao dân làng. Có mấy ai còn nhớ ông lão ấy chính là thầy Đụy-sen, người đem đến ánh sáng cách mạng góp phần xoá tan đi bóng tối cho bao cuộc đời? Hai cây phong còn là minh chứng cho sự hy sinh lặng thầm của những người cộng sản trẻ tuổi đã không ngại ngần cống hiến thời thanh xuân tươi đẹp cho quê hương thay da đổi thịt.

Hai cây phong được miêu tả không chỉ bằng ngòi bút tinh tế mà còn bằng một trái tim yêu thiên nhiên, yêu quê hương sâu sắc. Tình yêu tha thiết dành cho hai cây phong tuôn chảy không ngừng dưới ngòi bút tinh tế của nhà văn đã mang lại cho hai cây phong đời sống tâm hồn phong phú như con người. Đây là bức tranh được vẽ bằng thứ ngôn ngữ đầy tính tạo hình của hội họa và tính trữ tình của thơ, của nhạc. Tình cảm yêu mến hai cây phong của “tôi”, của “chúng tôi”, của những người dân làng Ku-ku-rêu khiến chúng ta trân trọng chính là vì hai cây phong ấy gắn với câu chuyện về một con người cao đẹp, người thầy giáo không có bằng sư phạm nhưng đã vun trồng bao ước mơ, hi vọng cho những trò nhỏ của mình.

Chia sẻ bởi: 👨 Trịnh Thị Thanh
Mời bạn đánh giá!
  • Lượt tải: 45
  • Lượt xem: 26.126
  • Dung lượng: 297,6 KB
Sắp xếp theo