Hỗ trợ tư vấn
Tư vấn - Giải đáp - Hỗ trợ đặt tài liệu
Mua gói Pro để tải file trên Download.vn và trải nghiệm website không quảng cáo
Tìm hiểu thêm »Đề thi giữa kì 1 Văn 12 năm 2025 - 2026 mang đến 19 đề kiểm tra có đáp án giải chi tiết kèm theo. Qua đề kiểm tra giữa kì 1 Ngữ văn 12 giúp các bạn học sinh ôn luyện củng cố kiến thức để biết cách ôn tập đạt kết quả cao.
TOP 19 Đề kiểm tra giữa kì 1 Ngữ văn 12 năm 2025 được biên soạn dưới dạng file Word với cấu trúc mới theo cấu trúc 100% tự luận với 4 điểm đọc hiểu + 6 điểm tập làm văn. Hi vọng qua đề kiểm tra giữa kì 1 Ngữ văn 12 sẽ giúp các em học sinh nắm vững kiến thức, kỹ năng toán học đã học trong nửa đầu học kì, làm quen với áp lực thời gian, cách phân bổ thời gian hợp lý, trình bày bài thi rõ ràng, mạch lạc. Ngoài ra các bạn xem thêm bộ đề thi giữa kì 1 Toán lớp 12, đề thi giữa kì 1 Hóa học 12.

Bản đặc tả có đầy đủ trong file tải về
|
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ……… TRƯỜNG THPT …….. ĐỀ CHÍNH THỨC (Đề gồm có 02 trang) |
KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ GIỮA HỌC KỲ 1 NĂM HỌC: 2025 -2026 MÔN: NGỮ VĂN 12 Thời gian làm bài: 90 phút |
Họ và tên thí sinh:……………………………. ……………Số báo danh:……………….
I. ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)
Đọc văn bản:
Mẹ đang ở đâu trong cõi đời này
Là sợi khói liêu xiêu nơi chái bếp
Hay ngọn gió đêm khuya rón rén chỗ con nằm?
Là hương chuối vườn sau lay lắt
Hay tiếng dầm khua xa vắng bờ sông?
Giấc mơ của con là ngôi nhà của mẹ
Mẹ về đi
Ngồi xuống bậu cửa
Dựng đòn gánh bên thềm, cởi nón quạt mồ hôi.
Có xúc gạo nấu cơm
Đôi tay gầy đừng cố bụm tiếng lon khua nơi đáy hủ.
Mẹ cứ đánh con đau
Để đời con bớt những đòn người
Nhưng mẹ ơi, đừng khóc!
Mẹ cứ rơi nước mắt
Làm chỉ xỏ kim trước thềm xuân năm cũ
Dẫu có bạc màu nhưng áo vẫn thơm.
Và mẹ cứ vào ra, quét dọn
Để con được gọn gàng hơn cả khi mẹ không còn.
Nhưng mỗi khi con thức giấc
Mẹ đã đi rồi...
(Nhớ mẹ - Văn Triều, Viết và đọc chuyên đề mùa hạ , Nhiều tác giả , NX B Hội nhà văn , 2021,
tr 203 )
Thực hiện các yêu cầu/ Trả lời câu hỏi:
Câu 1. (1.0 điểm) Xác định thể thơ của văn bản, dấu hiệu nào để xác định thể thơ đó.
Câu 2. (1.0 điểm) Trong khổ thơ đầu, hình ảnh người mẹ có thể xuất hiện ở những đâu?
Câu 3. (1.0 điểm) Nêu tác dụng của phép điệp được sử dụng trong những dòng thơ sau:
Mẹ cứ đánh con đau
Để đời con bớt những đòn người
Nhưng mẹ ơi, đừng khóc!
Mẹ cứ rơi nước mắt
Làm chỉ xỏ kim trước thềm xuân năm cũ
Dẫu có bạc màu nhưng áo vẫn thơm.
Và mẹ cứ vào ra, quét dọn
Để con được gọn gàng hơn cả khi mẹ không còn.
Câu 4. (1.0 điểm) Qua văn bản, anh/chị hãy rút ra một thông điệp có ý nghĩa nhất. Giải thích ngắn gọn vì sao chọn thông điệp đó.
II. VIẾT (6.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 150 chữ) phân tích cảm xúc của nhân vật trữ tình được thể hiện trong bài thơ ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4.0 điểm)
Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 xóa nhòa những ranh giới địa lí, khiến việc giao lưu văn hóa trở nên dễ dàng hơn. Trước thách thức xâm nhập văn hóa, nhiều người đổi mới nhưng không đổi màu, song cũng có không ít người bị cuốn trôi vào nó.
Từ góc nhìn của người trẻ, anh/chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về vấn đề trên.
--------- HẾT ----------
|
Phần/ Câu |
Nội dung |
Điểm |
|
I |
ĐỌC HIỂU |
|
|
1 |
- Thể thơ: tự do (0.5) - Số chữ trong các dòng thơ không đồng nhất/ không bằng nhau là cơ sở để xác định thể thơ tự do của văn bản.(0.5) |
1.0 |
|
2 |
- Trong khổ thơ đầu, hình ảnh người mẹ có thể xuất hiện ở: nơi chái bếp, chỗ con nằm, vườn sau, bờ sông. |
1.0 |
|
3 |
Nêu tác dụng của phép điệp được sử dụng trong đoạn thơ: - Làm tăng sức gợi hình, gợi cảm, tạo nhịp điệu và âm hưởng cho câu thơ .(0.5) - Nhấn mạnh khát khao được gặp mẹ, thấy hình ảnh mẹ trở về yêu thương, chăm sóc, nghiêm khắc dạy dỗ con nên người.(0.5) *Lưu ý:(HS có thể có cách diễn đạt khác hoặc tương đương nhưng đúng vấn đề vẫn ghi điểm tối đa) |
1.0 |
|
4 |
- HS rút ra một thông điệp có ý nghĩa nhất: về tình cảm với mẹ/ sự trân trọng những khoảnh khắc bên mẹ/ yêu thương mẹ,....(0.5) - Giải thích ngắn gọn vì sao chọn thông điệp đó.(0.5) *Lưu ý:(HS có thể rút ra các thông điệp khác nhưng liên quan đến văn bản vẫn ghi điểm tối đa) |
1.0 |
|
II. Câu 1 |
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 150 chữ) phân tích cảm xúc của nhân vật trữ tình ở phần Đọc hiểu. |
...............
Mời các bạn tải file về để xem trọn bộ Đề kiểm tra giữa kì 1 Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo
|
SỞ GD & ĐT … TRƯỜNG THPT ……… -------------------- ĐỀ CHÍNH THỨC |
ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KÌ 1 Năm học: 2025 – 2026 Môn thi: NGỮ VĂN. Khối 12 Thời gian làm bài: 90 phút |
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đồng dao của đất
|
(1)Tôi ngửi thấy mùi quê hương trong không gian Ngai ngái rạ rơm Nồng hương lúa mới Dọc theo nỗi nhớ Bài đồng dao gọi bước chân về...
(2)... Là lời kể của Bà đau đáu hồn quê Ngày xưa tháng ba ngày tám Những đôi chân lấm bùn vào lam lũ Những đôi vai gánh oằn mưa nắng; Tơi bời rụng xuống Dường như hoa gạo bớt đỏ Chuồn chuồn thót bụng bay
(3)Bầy sáo tan tác dáng chiều tức tưởi... |
... (4)Tôi gặp quê trong mùa trảy hội Bồng bềnh quan họ ngọt ngào lời ru Những câu đồng dao ngấm vào hạt lúa Thổi thành no ấm Nồi cơm Thạch Sanh gọi bầy trẻ lớn lên Những hoàng hôn cong cánh diều bay Ngất ngưởng lưng trâu sáo diều cao vút Quên lũ khoai nhông nhốc ngủ trên đồng...
(5)Đổ bên trời kỷ niệm chảy dòng sông Hội làng rộn ràng bến đợi Nỗi nhớ cất lời: Người ơi, người ở... Phù sa thời gian nở ra...
1997 (Vi Thuỳ Linh, Khát, NXB Phụ nữ, 2007) |
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định nhân vật trữ tình của bài thơ.
Câu 2. Xác định ít nhất 2 từ hoặc cụm từ chỉ ý niệm thời gian được nhắc tới trong bài thơ trên.
Câu 3. Phân tích tác dụng của phép điệp có trong những dòng thơ sau:
Những đôi chân lấm bùn vào lam lũ
Những đôi vai gánh oằn mưa nắng;
Câu 4. Bài thơ giúp anh/ chị hiểu gì về quê hương qua cảm nhận của nhân vật “tôi”?
Câu 5. Nhận xét về hình thức của khổ thơ:
Bầy sáo tan tác
dáng chiều
tức tưởi...
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm).
Viết bài văn nghị luận (600 chữ) so sánh, đánh giá một nét tương đồng, một nét khác biệt trong 2 đoạn trích từ 2 truyện ngắn sau đây.
(1) Bí ẩn của làn nước (Bảo Ninh)
...Nước đã ngập làng. Tôi vê, kịp dìu vợ leo lên mái. Mái nhà tranh của vọ chồng tôi bị lôi đi trong đêm đen. Đến khi mái ra sắp rã tan ra thì ơn trời nó vướng vào thân đa trước đình làng. Đã cả một đám đông bám trên các cành. Nhiều bàn tay chìa xuống giúp tôi đỡ vợ con trèo lên. Vợ tôi ôm khư khư đửa con mới sinh, nhất định không để tôi bế đỡ.
- Con trai... con trai mà... con trai... Để yên em ẵm, anh vụng...
Nhiều giờ trôi qua. Mưa tuôn, gió thổi. Mực nước không dâng cao hơn, nhưng chảy xiết hơn. Cây đa đầy người hơn. Tôi mỏi nhừ. Tay ôm chặt vợ, tay níu mình vào chạc cây. Vợ tôi yếu lả, ướt lướt thướt, lạnh ngắt.
Khoảng gần sáng, bỗng có tiếng quẫy nước ngay dưới cành đa của vợ chồng tôi. Một giọng nghẹn sặc với lên: Cứu mẹ con tôi mấy... cứu mấy, người ơi...
Một bàn tay nhớt và lạnh như tay ma rờ vào chân tôi đang buông thống. Tôi vội cúi xuống, đưa tay ra. Nhưng bàn tay của người đàn bà dưới nước truội đi, chìm nghỉm. Cành đa kêu rắc, chao mạnh. Vợ tôi ối kêu một tiếng thảng thốt, và "ùm", con trai tôi, đứa con sơ sinh tôi chưa được nhìn thấy mặt, tuột khỏi bọc ni lông trên tay mẹ nó, sa xuống làn nước tối tăm.
- Con tôi...! - Vợ tôi hét rú lên và lao ngay lập tức xuống nước hòng chụp lấy con.
Tôi phóng mình theo. Nước lạnh, ngầu bùn, sâu hút và cuốn mạnh. Tôi vớ kịp thằng con, nhao vội lên, trao nó cho những bàn tay đang chìa xuống, rồi lại lặn tiếp ngay để cứu vợ. Nhiều người phi xuống theo để trợ sức tôi... Tôi tỉnh lại, thấy trời sáng rồi và đã tạnh mưa. Tôi nằm trong khoang một ca nô cứu nạn đầy ắp người. Hồi đêm, tôi đã vật lộn điên dại quyết sống mái một phen với làn nước giết người, nhưng tôi đã thua cuộc. Ưa ra cả máu tai máu mũi mà không những không cứu nổi vợ, đến thi thể cô ấy tôi cũng không tìm thấy. Khi ca nô quân đội tới, mọi người đã phải dùng sức để buộc tôi rời mặt nước. Kiệt sức, tôi ngất đi. Khổ đau, tôi tỉnh dậy, nước mắt nóng rực, tê nhói. Một chị phụ nữ chen tới bên tôi, lên lời an ủi:
- Phận chị ấy đã vậy, thôi thì anh phải nén lòng lại, giữ sức khỏe mà nuôi con. Ơn trời, anh còn kịp cứu được cháu. Chao ôi, vừa kịp khóc chào đời đã trải một cơn kinh hoàng hú vía. Anh coi con anh này. Cứ như không. Đã bú, đã ngủ rồi đây này. Ngoan chưa này... Ôi chao, nó tè dầm rồi này.
Chị nựng nịu, và từ từ giở bọc chăn chiên đang ủ kín con tôi. Chị thay tã cho nó. Tôi nhìn, chết lặng.
- Con tôi... - Tôi khóc, đỡ lấy bọc chăn, - Con tôi!
Thời gian trôi qua và triển nước trôi đi, tôi đã có tuổi và con gái tôi đã thành một thiếu nữ. Nó là đứa con của làn nước, điều bí mật ấy, không ai hay, kể cả con gái tôi cũng không thể biết. Chỉ có dòng sông biết.
(Bảo Ninh, Những truyện ngắn, NXB Trẻ, 2021)
(2) Sống chết mặc bay (Phạm Duy Tốn)
Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên lên to quá, khúc đê làng... thuộc phủ... xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất.
Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ hết sức giữ gìn, kẻ thuổng kẻ thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thật thảm.
Than ôi. Sức người khó lòng địch nổi sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất, ấy lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân yếu hèn mà chống với mưa to gió lớn, để bảo thủ lấy tính mạng, gia tài, thế thời quan cha mẹ ở đâu?
Thưa rằng: đang ở trong đình kia. Cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nào cũng không việc gì.
Trong đình đèn thắp sáng trưng, nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập mới kê ở gian giữa, có một mình quan phụ mẫu, uy nghi chẽm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông chốc chốc lại phe phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay chực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng... trông mà thích mắt.
Ngoài kia tuy mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch, nghiêm trang lắm: trừ quan phụ mẫu mọi người không dám to tiếng. So với cảnh trăm họ đang lấm láp, gội gió tắm mưa như đàn sâu lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ, nguy nga: nào quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới, người nhà lính lệ khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh. Thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: "Điếu mày", tiếng tên lính hầu thưa: "Dạ"; tiếng thầy đề hỏi: "Bẩm bốc", tiếng quan lớn truyền: "ừ". Kẻ này "Bát sách! ăn". Người kia "thất văn".... "Phỗng", lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái; khi cười, khi nói, vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vị phúc tinh. [...]
(Nguyễn Cừ, Phạm Duy - Phạm Duy Tốn tác phẩm chọn lọc, NXB Văn học, 2002)
… HẾT….
|
Phần |
Câu |
Nội dung |
|
I |
|
ĐỌC HIỂU |
|
|
1 |
- Nhân vật trữ tình: tôi * Lưu ý: + Trả lời đúng như đáp án: 0,5 điểm. + Trả lời sai hoặc không trả lời: Không cho điểm |
|
|
2 |
- Những từ ngữ chỉ ý niệm thời gian được nhắc tới trong bài thơ: Ngày xưa, tháng ba tháng tám, dáng chiều, mùa trảy hội, hoàng hôn, thời gian * Lưu ý: + Trả lời từ 2 ý trở lên: 0.5 điểm + Trả lời 1 ý: 0.25 điểm + Trả lời sai hoặc không trả lời: Không cho điểm. |
|
|
3 |
- Phép điệp: Những… - Tác dụng: + Tạo tính liên kết, nhịp điệu dàn trải cho câu thơ. + Nhấn mạnh hình ảnh những con người lao động lam lũ, vất vả qua hình ảnh đôi chân lấm bùn, những đôi vai oằn xuống vì gánh nặng mưu sinh + Qua đó bộc lộ tấm lòng đồng cảm và sự gắn bó giữa nhà thơ với con người mà mảnh đất quê hương. * Lưu ý: Chấp nhận cách diễn đạt khác nhưng cần nêu đúng bản chất vấn đề. - Trả lời đầy đủ, có sức thuyết phục: 1,0 điểm (mỗi ý: 0.25 điểm) - Trả lời sai hoặc không trả lời: Không cho điểm. |
|
|
4 |
- Quê hương qua cảm nhận của nhân vật “tôi”: + Là không gian làng quê vừa gần gũi, bình dị, thân quen với mùi ngai ngái của rơm rạ, mùi thơm nồng của lúa mới, những cánh diều bay, tiếng sáo diều vi vu; vừa đượm buồn trong buổi hoàng hôn “dáng chiều tức tưởi + Là không gian sinh sống của những con người lam lũ, vất vả chân lấm tay bùn, dãi nắng dầm mưa, những đứa trẻ chăn trâu,… + Là không gian ngọt ngào của lời ru, những câu hát quan họ, những bài đồng dao. + Là một không gian văn hoá của những hội làng, lễ hội. * Lưu ý: Chấp nhận cách diễn đạt khác nhưng cần nêu đúng bản chất vấn đề. - Trả lời được 1 ý: 0,25 điểm. - Trả lời sai hoặc không trả lời: Không cho điểm. |
|
|
5 |
Nhận xét về hình thức của khổ thơ: Bầy sáo tan tác dáng chiều tức tưởi... - Hình thức (0.5 điểm) + Khổ thơ chỉ có 1 câu, tách thành 3 dòng, mở đầu viết hoa và kết thúc bằng dầu chấm lửng; + lối viết vắt dòng dáng chiều/ tức tưởi (…) - Nhận xét (0.5 điểm) + Hình thức tự do, độc đáo. + Góp phần thể hiện mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình, đồng thời tạo nhạc tính cho bài thơ: vừa ngập ngừng, ngắt quãng vừa ngân vang. * Lưu ý: + Nhận xét hợp lí, thuyết phục, sâu sắc về vấn đề: 0.5điểm/ ý + Nhận xét chung chung, sơ sài: 0.25 điểm. + Không nhận xét: không cho điểm. |
|
II |
|
VIẾT |
|
|
|
Viết bài luận so sánh, đánh giá nét tương đồng và khác biệt giữa hai tác phẩm: Bí ẩn của làn nước - Bảo Ninh và Sống chết mặc bay – Phạm Duy Tốn. |
|
|
|
a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài. Xác định được yêu cầu của kiểu bài: nghị luận văn học |
|
|
|
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: So sánh, đánh giá nét tương đồng và khác biệt giữa hai tác phẩm: Bí ẩn của làn nước - Bảo Ninh và Sống chết mặc bay – Phạm Duy Tốn. |
|
|
|
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề của bài viết - Xác định được các ý chính của bài viết - Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Sau đây là một số gợi ý: * Mở bài - Giới thiệu 2 tác phẩm và tác giả cần so sánh; vấn đề (điểm chung giữa 2 tác phẩm đề yêu cầu so sánh). - Nêu bình diện cần so sánh và vị trí của chúng đối với tác phẩm dư luận. Thân bài * Điểm chung ở 2 tác phẩm (dùng hình ảnh/chi tiết giàu ý nghĩa): - Thể loại: truyện ngắn. - Bồi cảnh, tình huống gay cấn, nguy hiểm bởi thiên tai, lũ lụt. → 2 tác giả chọn thể loại truyện ngắn và bối cảnh lũ lụt để phản ánh cuộc sống và bản chất con người. - Phong cách hiện thực; tư tưởng nhân đạo (xót thương thảm cảnh con người trước thiên tai...). * Điểm khác biệt: - Sống chết mặc bay - Phạm Duy Tốn: tố cáo sự vô nhân đạo, bất nhân của bọn quan lại, mang đậm giá trị hiện thực, nhân đạo cao cá về tình người. - Bí ẩn của làn nước - Bảo Ninh: Trong những tình huống nguy nan, ranh giới sống chết chỉ như sợi tóc, con người vẫn có thể sống yêu thương, đùm bọc, sẻ chia, thậm chí hy sinh cả sinh mạng cho người khác, cao thượng, nhân hậu. * Lý giải sự khác biệt: căn cứ vào hoàn cảnh ra đời của 2 tác phẩm, góc nhìn và sự sáng tạo của mỗi nhà văn. Kết bài - Nhận thức, đánh giá của cá nhân về ý nghĩa của từng tác phẩm (bình diện đã so sánh ở trên). - Đánh giá sự đóng góp, thành công của từng nhà văn (rút ra từ phần phân tích trên) đối với nền văn học. |
/...................
|
SỞ GD & ĐT … TRƯỜNG THPT ……… -------------------- ĐỀ CHÍNH THỨC |
ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KÌ 1 Năm học: 2025 – 2026 Môn thi: NGỮ VĂN. Khối 12 Thời gian làm bài: 90 phút |
I. ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một người con. Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay răn reo như một quả trám khô. Khi bác mới đến phố, ai ai cũng chú ý đến đám con của bác: mười một đứa, mà đứa nhớn mới có mười bảy tuổi! Đứa bé nhất hãy còn bế trên tay.
Mẹ con bác ta ở một căn nhà cuối phố, cái nhà cũng lụp xụp như những căn nhà khác. Chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan đã gẫy nát. Mùa rét thì giải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc. Đối với những người nghèo như bác, một chỗ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi. Nhưng còn cách kiếm ăn? Bác Lê chật vật, khó khăn suốt ngày cũng không đủ nuôi chừng ấy đứa con. Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng. Những ngày có người mướn ấy, tuy bác phải làm vất vả, nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà. Đó là những ngày sung sướng. Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng lúa đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ dưới gió bấc lạnh như lưỡi dao sắc khía vào da, bác Lê lo sợ, vì không ai mướn bác làm việc gì nữa. Thế là cả nhà nhịn đói. Mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, con Phún, thằng Hy mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt con trâu chết. Bác Lê ôm ấp lấy con trong ổ rơm, để mong lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó. thằng con nhớn nhất thì từ sáng đã cùng thằng Ba ra cánh đồng kiếm con cua, con ốc, hay sau mùa gặt, đi mót những bông lúa còn sót lại trong khe ruộng. Thật là sung sướng, nếu chúng mang về được một lượm, trong những ngày may mắn. Vội vàng, bác Lê đẩy con ra vơ lấy bó lúa, đem để xuống dưới chân vò nát, vét hột thóc giã lấy gạo. Rồi là một bữa cơm nóng lúc buổi tối giá rét, mẹ con ngồi xúm quanh nồi cơm bốc hơi, trong khi ngoài trời giá lạnh rít qua mái tranh.
Cuộc đời của gia đình bác Lê cứ như thế mà lặng lẽ qua, ngày no rồi lại ngày ngày đói. Tuy vậy cũng có những ngày vui vẻ. Những ngày nắng ấm trong năm, hay những buổi chiều mùa hạ, mẹ con bác Lê cùng nhau ngồi chơi ở trước cửa nhà. Các người hàng xóm cũng làm như thế. Các bà mẹ ngồi rủ rỉ với nhau những câu chuyện kín đáo, các trẻ con nô đùa dưới quán chợ, còn các bà già thì ngồi giũ tóc tìm chấy ngoài bóng nắng. Bác Lê đem thằng Hy, con Phún ra gọt tóc cho chúng nó bằng một cái mảnh chai sắc. Thằng cả ngồi đan lại cái lờ, còn những đứa khác chơi quanh gần đấy. Trong ngày hè nóng bức, con bác Lê đứa nào cũng lở đầu. Bác ta bảo là một cái bệnh gia truyền từ đời ông tam đại nên bác lấy phẩm xanh bôi cho chúng nó. Trông mẹ con bác lại càng giống mẹ con một đàn gà, mà những con gà con người ta bôi xanh lên đầu cho khỏi lẫn. Người phố chợ vẫn thường nói đùa bác Lê về đàn con đông đúc ấy. Bác Đối kéo xe, người vui tính nhất xóm, không lần nào đi qua nhà bác Lê mà không bảo:
- Bác phải nhớ thỉnh thoảng đếm lại con không quên mất.
Bác Lê bao giờ cũng trả lời một câu:
- Mất bớt đi cho nó đỡ tội.
Nhưng mọi người biết bác Lê quý con lắm. Tuy bác hết sức công bằng, người ta cũng thấy bác yêu thằng Hy hơn cả. Nó là con thứ chín, ốm yếu, và xanh xao nhất nhà. Bác thường bế nó lên lòng hôn hít, rồi khoe với hàng xóm: nội cả nhà chỉ có nó là giống thầy cháu như đúc. Rồi bác ôm con ngồi lặng yên một lát, như để nhớ lại chuyện gì đã lâu lắm.
(Nhà mẹ Lê, Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, 2015, trang 28-29)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản.
Câu 2. Xác định đề tài của văn bản.
Câu 3. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong câu : "Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt con trâu chết".
Câu 4. Nêu nội dung chính của đoạn trích.
Câu 5. Trình bày thông điệp ý nghĩa nhất mà em nhận được từ đoạn trích trên.
II. VIẾT (6.0 điểm)
Cảm nhận của anh chị về hai đoạn thơ sau:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
(Nguyễn Bính – Tương Tư, Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, Hà Nội, 1986, Tr 54- 56)
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
( Tố Hữu - Việt Bắc, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, Tr 82- 87 )
- Hết -
|
Phần |
Câu |
Ý |
Điểm |
|
I. Đọc hiểu |
1 |
- Phương thức biểu đạt chính: Tự sự Hướng dẫn chấm: - HS trả lời như đáp án: 0,5 điểm - HS không trả lời hoặc trả lời sai: không cho điểm |
0,5 |
|
2 |
Đề tài của văn bản : Phản ánh cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Hướng dẫn chấm: - HS trả lời như đáp án: 0,5 điểm - HS trả lời chưa đầy đủ : 0,25 điểm - HS không trả lời hoặc trả lời sai: không cho điểm |
0,5 |
|
|
3 |
* Biện pháp tu từ so sánh: thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt con trâu chết. * Tác dụng: + Nghệ thuật: Làm tăng tính gợi hình gợi cảm, giúp cho việc miêu tả cụ thể hình ảnh những đứa trẻ nghèo không có áo ấm mặc trong mùa đông giá rét. + Nội dung: Tác giả so sánh con người với con vật, lại là con vật chết gợi lên một hình ảnh đầy ám ảnh, khắc sâu sự nghèo khổ, tội nghiệp, đáng thương của những đứa trẻ con nhà mẹ Lê. Hướng dẫn chấm: - HS trả lời như đáp án: 1,0 điểm - HS trả lời tương đối đầy đủ : 0,75 điểm - HS trả lời được 1 ý về tác dụng: 0,5 điểm. HS chạm được 1 ý về biểu hiện hoặc1 tác dụng chưa đầy đủ : 0,25 điểm Hướng dẫn chấm: - HS trả lời như đáp án: 1,0 điểm - HS trả lời tương đối đầy đủ : 0,75 điểm - HS trả lời được 1 ý: 0,5 điểm. - HS không trả lời hoặc trả lời sai: không cho điểm - HS không trả lời hoặc trả lời sai: không cho điểm - Học sinh trả lời khác về tác dụng của biện pháp so sánh mà hợp lí vẫn cho điểm tối đa. |
1,0 |
|
|
4 |
Nội dung chính của đoạn trích: Cuộc sống nghèo khổ, khốn cùng và tình thương yêu con sâu sắc của mẹ Lê – người mẹ nghèo, đông con. Hướng dẫn chấm: - HS trả lời như đáp án: 1,0 điểm - HS trả lời tương đối đầy đủ : 0,75 điểm - HS trả lời được 1 trong 2 ý: 0,5 điểm. HS không trả lời hoặc trả lời sai: không cho điểm
|
1,0
|
|
|
|
5 |
Thông điệp ý nghĩa nhất mà em nhận được từ đoạn trích: Gợi ý một số thông điệp: - Tình mẫu tử là thiêng liêng nhất. - Hãy luôn yêu thương và trân trọng những điều mẹ dành cho mình. Hướng dẫn chấm: - HS trả lời một thông điệp: 0,5 điểm - HS trả lời chạm ý : 0,25 HS không trả lời hoặc trả lời sai: không cho điểm |
1,0 |
|
II. Viết |
a. Đảm bảo cấu trúc của bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài: Mở bài nêu được vấn đề. Thân bài triển khai được vấn đề. Kết bài khái quát được vấn đề. |
0,25 |
|
|
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Cảm nhận về hai đoạn thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính và “Việt Bắc” của Tố Hữu. |
0,5 |
||
|
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng, đảm bảo các yêu cầu sau: - Giới thiệu về Nguyễn Bính và bài thơ Tương tư - Giới thiệu về Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc - Nêu hiểu biết về tác giả, tác phẩm: + Trong các nhà thơ Mới, Nguyễn bÍnh được xem là nhà thơ thành công trong mảng thơ ca dân dã. Bài thơ dân dã nào của ông cũng dậy lên được hồn quê. Hồn quê ấy là sự hòa điệu của nhiều yếu tố thuộc cả nội dung và hình thức. + Trong áng văn của Nguyễn Bính còn chứa đựng tiếng nói, suy tư cuả nhà thơ đối với những mảnh đời nhỏ bé + Tố Hữu luôn hướng ngòi bút của mình bắt kịp mọi khoảnh khắc của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bởi thế, ông được mệnh danh là “ lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam”. - Phân tích đoạn thơ trong bài “Tương tư” + Tâm trạng tương tư của chàng trai quê được bộc lộ thành nỗi nhớ mong da diết, trĩu nặng… + Niềm mong nhớ gắn liền với khung cảnh làng quê khiến cho cả không gian như nhuốm đầy nỗi tương tư. + Nghệ thuật: Thể thơ lục bát, chất liệu ngôn từ chân quê, các biện pháp tu từ…. - Phân tích đoạn thơ trong bài thơ “ Việt Bắc” + Nỗi nhớ thiết tha, sâu nặng cả những người cán bộ kháng chiến. + Hiện lên trong nỗi nhớ là hình ảnh Việt Bắc thân thương.. + Nghệ thuật: thể thơ lục bát, hình ảnh gợi cảm, các phép đối - So sánh hai đoạn thơ + Tương đồng: Cả hai đoạn thơ đều thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng, sử dụng thể thơ lục bát điêu luyện. + Khác biệt: · Đoạn thơ trong Tương tư là nỗi nhớ tình yêu đôi lứa, gắn với làng quê Bắc Bộ… · Đoạn thơ trong Việt Bắc là nỗi nhớ của tình cảm cách mạng, gắn với không gian núi rừng Việt Bắc - Đánh giá chung về nét đặc sắc của hai đoạn thơ. |
0,5
0,5
1,0
1,0
1,0
0,5
|
||
|
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu Đảm bảo quy tắc chính tả, ngữ pháp tiếng Việt |
0,25 |
||
|
e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ. |
0,5 |
||
|
|
Tổng điểm: 4,0 + 6,0 = 10,0 |
||
..............
Xem đầy đủ nội dung đề thi giữa kì 1 Ngữ văn 12 trong file tải về
Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây: