Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 6 bài Việt Bắc của Tố Hữu Những bài văn hay lớp 12
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 6 Việt Bắc của Tố Hữu gồm dàn ý và 2 bài văn mẫu hay nhất được giới thiệu.
Bạn đọc hãy cùng tham khảo nội dung chi tiết của tài liệu sẽ được chúng tôi đăng tải ngay sau đây.
Phân tích khổ 6 bài Việt Bắc của Tố Hữu
Dàn ý phân tích Việt Bắc
1. Mở bài
- Khái quát tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu khổ thơ thơ thứ 6.
2. Thân bài
- Nhớ Việt Bắc, Tố Hữu nhớ tới thiên nhiên núi rừng và con người:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người ”
- Bức tranh thiên nhiên mùa đông của Tây Bắc hiện ra:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”
- Việt Bắc vào mùa xuân:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
- Mùa hạ bao trùm núi rừng nơi đây:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
- Bức tranh cuối cùng là khi Việt Bắc bước vào mùa thu:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
3. Kết bài
Sự kết hợp màu sắc giữa cổ điển và hiện đại, đem lại cảm giác vừa gần gũi, quen thuộc nhưng vẫn rất mới mẻ mới mẻ. Âm hưởng đoạn thơ tha thiết, giọng điệu thơ tâm tình. “ Việt Bắc” đã để lại cho người đọc bao ấn tượng sâu sắc.
Phân tích đoạn 6 Việt Bắc - Mẫu 1
Một trong những sáng tác tiêu biểu của Tố Hữu là Việt Bắc. Nổi bật trong bài thơ là đoạn 6:
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung."
Hai câu thơ đầu tiên vẫn là lời đối đáp quen thuộc của người ra đi và người ở lại. “Ta” - “mình” cho thấy tình cảm gắn bó tha thiết giữa người lính với đồng bào Việt Bắc. Ở đây, người ra đi đã hỏi người ở lại: “Ta về mình có nhớ ta” đồng thời bộc lộ nỗi nhớ về “hoa cùng người”. Khi ra đi, người lính vẫn luôn nhớ đến khung cảnh thiên nhiên Việt Bắc cùng với con người nơi đây.
Khung cảnh núi rừng Việt Bắc vào mùa đông hiện ta qua vài nét chấm phá đặc trưng của thơ ca cổ điển. Hai gam màu chủ đạo trong bức tranh đó là “xanh” và “đỏ”. Màu xanh thường gắn với sức sống, hy vọng và phát triển. Nhưng màu xanh ở đây lại gợi ra một sự lạnh lẽo, âm u của núi rừng Việt Bắc chỉ có bạt ngàn cây cối. Trên cái nền xanh mênh mông ấy nổi bật lên là màu đỏ tươi của hoa chuối rừng. Những bông hoa chuối đỏ giống như những ngọn đuốc thắp sáng rừng sâu u ấm, khiến nó bớt đi cái lạnh giá. Và trong bức tranh núi rừng đó, con người bỗng xuất hiện với công việc lao động sản xuất- gợi ra hình ảnh những con người Việt Bắc khỏe khoắn. Trên người họ lúc nào cũng có một con dao để vượt núi băng rừng làm rẫy. Ánh nắng ấm áp bao phủ càng tô đậm hơn sức sống mãnh liệt của đồng bào Việt Bắc.
Xuân đến, núi rừng Việt Bắc tràn ngập trong sắc trắng của hoa “mơ”. Giống như hoa đào tượng trưng cho mùa xuân ở đồng bằng Bắc Bộ, hoa mai tượng trưng cho mùa xuân ở đồng bằng Nam Bộ. Thì hoa mơ chính là loài hoa tượng trưng cho mùa xuân ở núi rừng Việt Bắc. Sắc trắng của hoa mơ bao phủ khắp núi rừng khiến cho bức tranh thiên nhiên tràn đầy sinh khí, ấm áp và thơ mộng. Giữa thiên nhiên đó, con người xuất hiện với công việc “đan nón” đầy tinh tế “chuốt từng sợi giang”. Sự tỉ mỉ, cẩn thận gợi cho người đọc hình ảnh về con người Việt Bắc đầy tâm huyết với công việc mình đang làm. Bàn tay tài hoa của họ cũng giống như người nghệ sĩ sáng tạo ra những sản phẩm thủ công có giá trị.
Tiếp đến là bức tranh mùa hè, hình ảnh “ve kêu rừng phách đổ vàng” được Tố Hữu sử dụng thật khéo léo. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác qua từ “đổ vàng” khiến người đọc cảm nhận được thiên nhiên thay đổi vốn qua thính giác nay biến thành thị giác. Mùa hè ập đến với núi rừng nơi đây thật nhanh chóng, bất ngờ. Trong thiên nhiên ấy, con người xuất hiện đơn độc. “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Một mình nhưng không đơn độc giữa núi rừng, bởi cô đang say sưa lao động để phục vụ cho kháng chiến. Đó là sự hy sinh của người Việt Bắc dành cho các chiến sĩ cách mạng.
Cuối cùng là bức tranh mùa thu với hình ảnh “rừng thu trăng rọi hòa bình”.Ánh trăng thanh bình của một đêm mùa thu lịch sử với nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, trong bức tranh mùa thu, con người xuất hiện không phải với công việc lao động nữa, mà xuất hiện với “tiếng hát”. Có thể hiểu đó là tiếng hát mừng chiến thắng của đồng bào Việt Bắc. Cũng có thể hiểu đó là tiếng hát chia tay đầy lưu luyến của đồng bào Việt Bắc dành cho cán bộ kháng chiến. Giờ phút chia tay này, những kỉ niệm về năm tháng kháng chiến gian khổ lại ùa về. Biết bao năm cùng nhau lao động, chiến đấu - chia ngọt sẻ bùi.
Đoạn 6 của bài thơ Việt Bắc đã khắc họa được vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, con người Việt Bắc hiện lên vô cùng sinh động.
Phân tích đoạn 6 Việt Bắc - Mẫu 2
Việt Bắc là một khúc tình ca nồng nàn và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của cảm hứng là tình yêu quê hương đất nước, là sức mạnh của nhân dân, là truyền thống đạo lí ân nghĩa thủy chung của dân tộc Việt Nam. Bao trùm bài thơ Việt Bắc là nỗi nhớ nồng nàn, tha thiết. Qua dòng hồi tưởng miên man của chủ thể trữ tình, cảnh vật và con người Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ. Nỗi nhớ hướng về nhiều đối tượng, nhưng có lẽ tập trung nhất là nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc, về người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thủy chung trong nghĩa tình để lại ấn tượng không phai mờ trong tâm trí người ra đi:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
“ Ta về, mình có nhớ ta…” giống như lời đưa đẩy trong đối đáp giao duyên của ca dao, dân ca. “Mình về mình có nhớ chăng, Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”… là câu hỏi tu từ có tác dụng khơi gợi và liên kết các nỗi nhớ lại với nhau một cách khéo léo, nhuần nhị.
“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”, hình ảnh hoa tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Trong tâm tưởng của những người ra đi in đậm cảnh sắc tươi xanh, tràn đầy sức sống của vùng đất mình đã gắn bó suốt một thời gian dài. Nhớ hoa cũng chính là nhớ người và ngược lại. Nỗi nhớ đọng lại trong bức tranh cảnh sắc bốn mùa của con người Việt Bắc. Tác giả đã vẽ nên bằng ngôn ngữ thơ ca một bộ tranh tứ bình về thiên nhiên Việt Bắc. Mỗi bức tranh đều có nét đẹp riêng.
Ngòi bút tạo hình của nhà thơ đã đạt tới trình độ “thi trung hữu họa”. Ở bức tranh thứ nhất:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Mùa đông Việt Bắc rực rỡ với sắc đỏ tươi nổi bật của hoa chuối rừng trên cái nền xanh trầm tĩnh của cây lá. Con người Việt Bắc hiện ra với vẻ đẹp khỏe khoắn. Hai từ “nắng ánh” khiến lời thơ như phát sáng. Vẻ đẹp con người ngời lên rạng rỡ trong tư thế vươn tới đỉnh đèo. Ta có thể so sánh mùa đông Việt Bắc trong ký ức của người ra đi khác hẳn vẻ lạnh lẽo trong thơ ca cổ điển.
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”
Mùa xuân, Việt Bắc hiện ra trong vẻ đẹp dịu dàng xao xuyến với sắc hoa mơ trắng bạt ngàn rừng núi. Người Việt Bắc hiện ra trong công việc bình dị, đời thường. Động từ “chuốt” diễn tả cái tài hoa của người lao động. Mùa xuân Việt Bắc trong thơ Tố Hữu là sự hòa điệu giữa cái thanh tao thơ mộng của đất trời với cái bình dị của con người trong cuộc sống lao động đời thường. “Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Mùa hạ, Việt Bắc rộn ràng tươi sáng với sắc vàng của rừng phách và âm thanh vừa tiếng ve. Từ “rộ” có thể xem như của câu thơ, thể hiện sự tương quan kì diệu giữa âm thanh và màu sắc, khiến cho cảnh vật có sự giao cảm. Người Việt Bắc hiện ra trong vẻ đẹp hiền hòa như một điểm nhấn sâu lắng giữa không khí sôi đọng rộn ràng của thiên nhiên mùa hạ.
“ Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Mùa thu, Việt Bắc hiện ra trong trẻo thanh bình dưới ánh trăng. Ở đây tác giả không miêu tả mà gợi tả không khí đất trời Việt Bắc trong mùa thu. Con người Việt Bắc hiện ra thắm thiết ân tình trong tiếng hát thủy chung của cách mạng. Có thể thấy bộ tranh tứ bình về Việt Bắc được phác họa bằng bút pháp chấm phá cổ điển. Các câu lục phác họa hình ảnh thiên nhiên, các câu bác thì phác họa hình ảnh con người. Cảnh sắc và con người đan cài hòa quyện vào nhau tạo ấn tượng với một Việt Bắc đầy sức sống. Trong bộ tranh tứ bình của Tố Hữu, cảnh nào cũng được thức dậy bằng tình yêu thương. Nếu màu sắc cổ điển thanh đạm thì dưới bút thơ Tố Hữu màu sắc phong phú đa dạng tươi sáng. Mỗi gam màu đều là một ấn tượng dành cho Việt Bắc. Nếu cổ điển, con người xuất hiện như một nét điểm xuyết cho thiên nhiên núi rừng, thì trong bộ tứ bình của Tố Hữu, con người hiện diện như trung tâm của khung hình, làm cho hình ảnh con người thêm nổi bật.
Đoạn thơ khép lại mà còn lưu lại trong tâm trí người đọc một Tây Bắc tươi đẹp, một Tây Bắc tươi vui, thắm thiết tình người. Qua đoạn thơ, chúng ta cảm nhận được tình cảm mà Tố Hữu danh cho thiên nhiên, con người nơi rừng nối đại ngàn, đồng thời cho thấy tình nghĩa thuỷ chung son sắt của dân tộc Việt Nam, của tình đoàn kết quân dân trong cuộc chiến giành độc lập tự do của Tổ Quốc. “Việt Bắc” và nhà thơ Tố Hữu như một bản tình ca bất hủ về tình yêu thương và lòng chung thuỷ vẹn tròn.