Nghị luận bài thơ Nguyệt cầm Viết bài văn nghị luận về một bài thơ lớp 11
Văn mẫu lớp 11: Nghị luận bài thơ Nguyệt cầm của Xuân Diệu mang đến 2 bài văn mẫu cực hay, ấn tượng nhất. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều gợi ý tham khảo để biết cách viết bài văn hay.
Nguyệt cầm của nhà thơ Xuân Diệu là một bài thơ mang những cảm xúc rất đặc biệt của nhà thơ, với cảm xúc tươi mới, sự hối hả, vội vàng đầy đắm say với tình yêu. Vậy sau đây là 2 bài văn nghị luận Nguyệt cầm hay nhất mời các bạn theo dõi. Ngoài ra các bạn xem thêm: Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (Bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (Bức tranh, pho tượng).
Nghị luận về bài thơ Nguyệt cầm
Nghị luận bài Nguyệt cầm
Nhắc đến sự thành công của phong trào thơ mới, chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ đến những cái tên như Chế Lan Viên, Huy Cận và đặc biệt là nhà thơ Xuân Diệu - Người được mệnh danh là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Thoát ra khỏi lối mòn của thơ cũ, Xuân Diệu đã để lại cho đời cả một gia tài thơ khổng lồ. Trong thơ Xuân Diệu luôn có vai trò đặc biệt của cảm giác, cảm giác về cuộc sống xung quanh của nhà thơ muôn hình muôn vẻ, có khi là những điều lớn lao trong tình yêu, nhưng có khi là chỉ qua việc nghe “nguyệt cầm” nhà thơ đã tạo nên bao điều tinh tế. Bài thơ “Nguyệt cầm” là một trong những bài thơ thể hiện rõ sự tinh tế ấy.
Không khí bao trùm lên toàn bộ bài thơ là một vẻ lạnh, cái lạnh thấm sâu và xuyên suốt cả bài thơ, nó “thâm nhập” vào hồn người từ những câu thơ đầu:
“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân ...”
“Trăng nhập” như muốn nói lên rằng ở đây trăng là một linh hồn nhạy cảm, bơ vơ đang đi tìm chỗ nương tựa, linh hồn ấy đã nhập vào “dây cung nguyệt lạnh” càng làm cho cảm giác lạnh lẽo tăng thêm. Nếu “Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh” mở ra bối cảnh da diết thì “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần” dẫn đến niềm nhớ thương và sự phân chia nghìn trùng xa cách giữa hai bên. hai câu thơ vì thế mà trở thành cặp phạm trù song song đối đẳng.
Những thanh trắc nghe mà nức nở, kết hợp với những thanh bằng trùng tạo ra âm thanh trầm uất, sâu lắng. Những nhịp đứt đoạn, ngắc ngứ diễn tả một nỗi buồn u ẩn của những kiếp cầm ca. Những nốt đàn buồn chầm chậm mà đọng thành từng giọt như giọt lệ có âm thanh “ngân” lên nỗi buồn của ca nữ.
Chợt một cảm giác xâm chiếm nỗi buồn miên man khi bóng sáng lung linh bỗng rung mình:
“Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh”.
Câu thơ không nói đến hình ảnh con người, cảnh vật quá đỗi trong sạch, nỗi buồn được lan tỏa trong không gian thanh sáng thành ra như không có gì lấp vào được. Không thể vợi bớt đi mà cứ ngày càng tăng lên. Không có con người, không có âm thanh nào khác ngoài tiếng đàn, càng không có hơi ấm của cuộc sống. Chính tiếng đàn thánh thót mà trầm lắng kia dồn dập mà chậm rãi làm cho ánh trăng như đang run lên trong không gian quá rộng, quá trong:
“Linh lung bóng sáng bỗng rung mình”
2 câu thơ tiếp là nguyên nhân của tiếng đàn buồn, ra là thi nhân vân đang hướng tới con người. Nghe tiếng đàn “rơi”, trong ánh trăng, Xuân Diệu nghĩ ngay tới những kiếp người bạc mệnh. Số phận của họ có phải giống như tiếng đàn kia vang lên mong manh, lẻ loi rồi tan vào trong vũ trụ. Khi hạ bút viết từ “xanh” không biết thi nhân có thầy nhói trong tim mình, Nước “xanh” không phải một dòng nước trong trẻo, dịu êm; nước xanh là dòng nước vẫn còn mang cái vẻ hoang dại và vô tình của tạo hóa, lại là nơi đón những linh hồn còn màu xanh của sức tuổi trẻ.
Không gian của bài thơ ngày càng khuya khoắt, thanh vắng hơn, dường như cái lạnh của đêm thu càng làm tăng thêm độ ngời sáng của ánh trăng:
“Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
... Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người”.
Bài thơ có đến ba từ “lạnh”. Nhưng phải đến từ “lạnh” thứ ba này được đặt độc lập trong câu thơ mới thấy được cái lạnh toát ra mạnh mẽ nhất, đến người cũng cảm thấy hơi lạnh bốc lên, cái lạnh lọc trong ánh trăng, cái lạnh rùng mình. Giọt “lệ đàn” giờ thành nước, dòng nước tê lạnh cứ ngấm dần vào tìm người ta... Tiếng “trời ơi” vang lên như tiếng kêu thảng thốt của một tâm hồn mềm yếu trước cái lạnh ấy, cái rùng mình của một thân phận cô đơn giữa một thể giới tưởng như bao la, thế giới thiếu vắng con người, thể giới lạnh lẽo với đầy kí ức buồn.
Hai câu thơ tiếp đảo từ “long lanh” lên đầu cho ta thấy ánh sáng phát ra từ tiếng đàn, động vào sỏi đá. Cái cảm giác ấy lẽ ra phải được cảm nhận bằng thị giác nay “vang vọng” thì đã chuyển sang thính giác. Tiếng đàn đêm nay lại là tiếng vang của những mối hận trong lòng. Câu thơ đưa ta về với bến Tầm Dương, với cảnh và tình ngày xưa để cảm nhận tiếng đàn ở mức độ tinh vi nhất: ánh trăng, nhạc và ánh sáng ... hoà vào nhau. Thế mới thấy năng lực tạo hình bằng âm thanh của Xuân Diệu đạt đến mức tài hoa như thế nào.
Tiếng đàn càng về khuya nghe càng rõ, càng dồn dập:
“Bốn bề ánh nhạc biển pha lê ...
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”
Không gian được bao quanh bởi tiếng đàn. tiếng đàn hoá thành đại dương, mỗi giọt âm thanh vừa là trăng, là bạc, là pha lê. Câu thơ như vút cao lên. Tuy nhiên, từ đầu bài thơ tới giờ đêm nhạc chỉ gây cho ta cảm giác ớn lạnh thì biển pha lê kia cũng là một bể sầu vô định, mênh mông, choáng ngợp mà trên đó có một chiếc đảo đang bơ vơ. Hai từ “bốn bề” được đặt ở đầu câu thứ nhất lặp lại ở cuối câu thứ hai vừa là đóng khung cuộc đời con người trong đó lại vừa mở ra một không gian vô tận, ở đó con người thật nhỏ bé, khó xác định, bị ngợp dần.
Giờ chỉ còn lại tiếng đàn sầu não với một tâm hồn bơ vơ. Không gian nín lặng đi vì xúc động. Nỗi buồn ngập tràn, lan tỏa, lắng sâu vào tâm hồn người đọc. Tiếng đàn ngân mãi, vang vọng vào cái không gian xa kia làm nó thêm vời vợi mà con người thì cứ nhỏ đi, chìm đi mãi.
Thế giới không có mặt trời đầy sao mà hoang vắng quá. Chỉ có những sợi ánh sáng le lói, những giọt âm thanh lấp lánh trên trang thơ, cái tài, Cái hồn của Xuân Diệu được đặt ở đó. Thơ Xuân Diệu là tiếng lòng của ông, thiên nhiên là tâm sự khỏa lấp khoảng trống trong tâm hồn ông. Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu mà thiên nhiên là hình thức biểu hiện của tình yêu đó, đó là nơi ông gửi gắm tâm trạng, những suy nghĩ khiến ông trăn trở. Khi ông thất vọng cô đơn, thiên nhiên lạnh lẽo trầm lắng, khi ông vội vã sống, vội vã yêu, thiên nhiên trở nên tươi sáng chan hòa. Tuy nhiên nếu như thả tâm hồn mình cũng ngập chìm trong đó, ta sẽ thấy vương vấn man mác một nỗi buồn không tên, mới nhìn tưởng như là muôn thuở nhưng nhìn kĩ thì nó lại mang dấu ấn của một lớp người, của một thời đại đã qua có thể nhận được sự cảm thông của nhiều thế hệ sau.
Nghị luận bài thơ Nguyệt cầm
Bài thơ Nguyệt Cầm của Xuân Diệu là một tác phẩm văn chương nổi tiếng trong thời kỳ thơ ca lãng mạn ở Việt Nam, xuất hiện trong giai đoạn từ 1930 đến 1945. Trong thời kỳ này, văn chương Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thi pháp thơ tượng trưng của Pháp, tạo nên một thế giới vừa thống nhất trong tình âm u, vừa huyền bí độc đáo. Trong đó nổi bật nhất là hình ảnh ánh trăng, một đề tài phổ biến và quen thuộc.
Tuy ánh trăng là một đề tài đã được khai thác nhiều lần trong văn chương, nhưng Xuân Diệu đã thể hiện một cách sáng tạo và độc đáo thông qua bài thơ "Nguyệt Cầm". Ông không chỉ tìm kiếm một khía cạnh mới để khám phá, mà còn kết hợp hình ảnh trăng với một đối tượng khác hoàn toàn không liên quan, đó chính là cây đàn cầm. Kết quả là một tác phẩm độc đáo và thành công mang tên "Nguyệt Cầm". Bài thơ Nguyệt Cầm của Xuân Diệu thể hiện những cảm xúc và tình cảm trữ tình, đậm chất lãng mạn, đặc biệt là những ẩn ý của cảm xúc đó được thể hiện thông qua hình ảnh mới lạ của nguyệt cầm. Từ tiêu đề của bài thơ, ta có thể liên tưởng đến sự hòa quyện của ánh trăng trong bản nhạc của người nghệ sĩ, tạo ra không chỉ khung cảnh tuyệt đẹp mà còn âm thanh du dương, quyến rũ, hấp dẫn người đọc.
Bài thơ bắt đầu bằng việc mở ra không gian của một đêm trăng, với ánh trăng nhập vào "cung nguyệt" và tạo nên sự lạnh lẽo. Xuân Diệu tạo ra một hình ảnh sự tiếp xúc giữa ánh trăng và cây đàn cầm thông qua động từ "nhập", tạo nên sức ám ảnh mạnh mẽ, tạo ra sự hợp nhất giữa hai yếu tố này. Sự hợp nhất đó tạo ra sự choáng ngợp và cảm giác hơi lạnh len lỏi trong tâm trí, như được mô tả trong dòng cảm nhận "Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh". Câu thơ tiếp theo "Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần" cho thấy vầng trăng không chỉ là một hiện tượng thiên nhiên mà còn như một con người, có cảm xúc thương nhớ. Cung đàn cũng được miêu tả là u uất, lặng lẽ trong giai điệu "Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm", tạo ra hình ảnh của một chuyện tình buồn. Câu thơ tiếp theo "Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân" mô tả ánh trăng rơi xuống như những giọt lệ sầu thương, sử dụng âm thanh để tái hiện hình ảnh này.
Trong các khổ thơ tiếp theo, Xuân Diệu mô tả không gian đêm trăng là không gian của mùa thu với không gian "mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh". Ánh sáng của vầng trăng trên bầu trời mang đến sự lung linh, tạo nên sự rung động cho người đón nhận. Tác giả kết nối âm thanh của cây đàn cầm với hình ảnh này, tạo nên sự hòa quyện và cảm xúc đặc biệt. Trong cách viết của Xuân Diệu, bài thơ "Nguyệt Cầm" tạo nên một không gian tưởng tượng đầy huyền bí và cảm xúc trữ tình. Nhà thơ sử dụng hình ảnh trăng và cây đàn cầm để tạo ra sự giao hòa giữa âm thanh và hình ảnh, giữa không gian và cảm nhận. Hình ảnh ánh trăng lạnh lẽo và giọt lệ ngân của nó tạo nên một khung cảnh u buồn và đầy xúc động. Âm thanh của cây đàn cầm được miêu tả như một âm nhạc đầy u uất và đắm say, gợi lên những cảm xúc sâu sắc và những kỷ niệm đau thương.
Từ việc kết hợp hai yếu tố khác nhau là trăng và cây đàn cầm, Xuân Diệu đã tạo ra một tác phẩm độc đáo và tinh tế, cho thấy sự tài năng và tầm nhìn sáng tạo của mình. Bài thơ Nguyệt Cầm không chỉ đơn thuần là một bài thơ về trăng, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật sâu sắc và lôi cuốn. Nó thể hiện sự kết hợp tinh tế giữa âm thanh và hình ảnh để tái hiện những cảm xúc trữ tình và huyền bí của tác giả.
Chọn file cần tải:
Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:
